Tịnh Độ Đại Kinh
Giải Diễn Nghĩa
淨土大經解演義
Phần 68
Chủ giảng: Lăo pháp sư Thích Tịnh Không
Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự
đệ tử Như Ḥa
Giảo duyệt: Huệ Trang và
Đức Phong
Tập 135
Xem từ câu “thọ tŕ Như Lai thậm thâm
pháp tạng” (thọ tŕ pháp tạng rất sâu của
Như Lai). Đối với câu kinh văn này, cụ Niệm
Tổ nói: “Thử hữu nhị
giải, nhất Tịnh Ảnh Sớ viết: Minh tu thắng
giải Như Lai Tạng Tánh, thị Như Lai thậm thâm
pháp tạng. Ám chướng kư trừ, minh hiện kỷ
tâm, cố viết thọ tŕ. Thị dĩ minh tâm vi thọ
tŕ thậm thâm pháp tạng” (Câu
này có hai cách giải thích. Một là như Tịnh Ảnh
Sớ đă giảng: “Tu cho hiểu rành rẽ Như Lai
Tạng Tánh là pháp tạng rất sâu của Như Lai. Ám
chướng đă trừ, tâm của chính ḿnh hiện rơ,
nên gọi là thọ tŕ”. Thuyết này cho rằng minh tâm là
“thọ tŕ pháp tạng rất sâu”).
“Pháp tạng”:
Trước hết, phải hiểu rơ ràng “thậm thâm pháp tạng” là ǵ! Pháp là Phật pháp, Tạng
(藏) là chỗ có
lưu giữ Phật pháp. Nơi nào có Phật pháp, cất
chứa Phật pháp? Nhất là nói “Như Lai thậm thâm pháp tạng” th́ phải là Phật
pháp rốt ráo viên măn mới được gọi là “thậm thâm pháp tạng”. Nói
theo Sự, tôi nghĩ các đồng học nhất định
cũng biết Phật pháp rốt ráo viên măn [là ǵ]. Cổ
đại đức nói Đại Phương Quảng
Phật Hoa Nghiêm Kinh là pháp căn bản của hết thảy
Phật pháp. Hết thảy Phật pháp không pháp nào chẳng
lưu xuất từ kinh Hoa Nghiêm. Hoa Nghiêm giống như
biển cả, Phật pháp như sông ng̣i, những con sông ấy
đều chẳng tách rời biển cả.
Tịnh Ảnh Sớ
là [tác phẩm chú giải kinh Vô Lượng Thọ] của
pháp sư Huệ Viễn đời Tùy, Ngài giải thích câu
kinh văn này như sau: “Minh tu
thắng giải Như Lai Tạng Tánh” (tu cho hiểu
rành rẽ sự thù thắng của Như Lai Tạng Tánh).
V́ hết thảy các pháp của Như Lai đều lưu
xuất từ Như Lai Tạng Tánh. Như Lai Tạng Tánh chính
là tự tánh, c̣n gọi là Pháp Tánh, đấy chính là pháp tạng
rất sâu của Như Lai. “Ám
chướng kư trừ, minh hiện kỷ tâm” (Ám chướng đă trừ, tâm của
chính ḿnh hiện rơ): Đây là chân tâm của chính ḿnh, điều
này được gọi là “thọ
tŕ”. Ám (闇) là mê hoặc, là
phiền năo, vô minh phiền năo. Chướng (障) cũng là phiền
năo, [“ám chướng”] tức
là Phiền Năo Chướng và Sở Tri Chướng. Nếu
chúng ta dùng hai chữ ấy để nói hai thứ chướng
ngại ở đây, th́ Chướng là Sở Tri Chướng,
Ám là Phiền Năo Chướng, tức vọng tưởng,
phân biệt, chấp trước. Những thứ ấy
đều bị diệt trừ, đều buông xuống,
đều chẳng c̣n, người ấy là ǵ? Pháp Thân Bồ
Tát, đă minh tâm kiến tánh. Ám chướng chưa trừ
th́ là lục đạo phàm phu. Sau khi đă diệt trừ,
[lời Sớ] bèn viết tiếp: “Minh hiện kỷ tâm”, nghĩa là tâm của chính
ḿnh liền hiển hiện, điều đó được
gọi là “thọ tŕ”. V́ vậy,
ư nghĩa trong đoạn này là: Coi minh tâm là thọ tŕ tạng
pháp rất sâu. Minh tâm là kiến tánh, thấy bản tánh của
chính ḿnh. Trong Thiền Tông thường nói: Buông vọng
tưởng, phân biệt, chấp trước xuống, sẽ
thấy bản tánh của chính ḿnh. Tông Môn gọi chuyện
này là “đại triệt đại ngộ, minh tâm kiến
tánh”. Đó là “thọ tŕ thậm
thâm pháp tạng”. Thật vậy, chẳng giả!
Một
người sau khi đă khai ngộ, đối với hết
thảy các pháp do đức Thế Tôn đă nói trong bốn
mươi chín năm, hễ tiếp xúc liền hiểu rơ
toàn bộ. Đúng như trong bài Kệ Khai Kinh đă nói: “Nguyện giải Như Lai chân
thật nghĩa”, ai có thể làm được? Pháp Thân
Bồ Tát có thể làm được, thật sự hiểu
nghĩa chân thật của Như Lai, nhưng những kẻ
trong mười pháp giới vẫn chẳng làm được!
Tứ thánh pháp giới càng lên cao càng tiếp cận,
nhưng vẫn luôn cách biệt một tầng, v́ chưa kiến
tánh. Sau khi kiến tánh, trí huệ và đức tướng
đều thuộc về Tánh Đức vốn sẵn có
trong tự tánh. Chưa kiến tánh, trí huệ và đức
tướng của chúng ta là Tu Đức, do quư vị tu
được, tu từ tâm thanh tịnh, tâm b́nh đẳng,
tâm từ bi mà đạt được. Cũng có thể
tu rất giống Phật, Bồ Tát, nhưng do vô minh phiền
năo chưa phá, nên c̣n kém một bậc. Những đạo
lư này chúng ta đều hiểu rất rơ ràng, cũng hiểu
phương pháp tu học, nhưng chẳng thật sự hành.
Rất mong thật sự hành, nhưng nói chung là làm chẳng
giống, nguyên nhân ở chỗ nào? Tập khí phiền năo
quá nặng. Các khoa học gia nói đến tiềm ư thức
(tiềm thức, subconcious), họ chia ư thức thành hai loại.
Một loại là rơ rệt, tức hiển ư thức
(consciousness), chúng ta nhận biết [loại này]. Chúng ta khởi
tâm động niệm, nghĩ tới điều ǵ đó.
Đấy là ư thức rất rơ rệt. Tiềm ư thức th́
chính ḿnh chẳng biết, nhưng nó thường khởi
tác dụng. Ví như chính ḿnh chẳng suy nghĩ, bỗng
dưng có một ấn tượng hiện tiền. Ấn
tượng quá sâu, chẳng nghĩ tới mà nó cũng hiện
tiền. Nhiều người thuở trước sống
trong thời đại chiến tranh, ư niệm và kư ức
rất sâu, đêm thường nằm mộng thấy
đang ở trong thời xảy ra chiến tranh, gần
như là Đệ Nhị Thế Chiến vẫn chưa kết
thúc. Chẳng nghĩ tới nó, [mà nó vẫn hiển hiện],
đó là ǵ? Thuộc về tiềm ư thức, nó khởi tác
dụng, rất đáng sợ!
Chúng
ta huấn luyện những thứ thuộc về tiềm
ư thức trên đây, thay đổi những thứ bất
thiện, khiến cho khởi tâm động niệm của
chúng ta đều là Phật, Bồ Tát, khởi tâm động
niệm đều là thế giới Cực Lạc, chắc
chắn sẽ văng sanh. Quả thật là bất tri bất
giác, chẳng cố ư nghĩ tới các Ngài, nhưng Phật,
Bồ Tát thường hiện tiền, lũ b́nh phàm chúng
ta thường nói là “ở trong đầu óc”, chính quư vị
biết rất rơ, người khác chẳng biết. Cách nói
này cũng chẳng sâu lắm, ai nấy đều hiểu
được. Chuyện này là thật, chẳng giả.
Cũng có thể nói là trong kư ức của chúng ta, kư ức
thuộc về tiềm ư thức, tức A Lại Da Thức
ghi lại ấn tượng rất sâu đậm, chẳng
có cách nào diệt trừ. Nó khởi tác dụng, dẫn dắt
quư vị. Những ảnh hưởng bất thiện sẽ
gây ảnh hưởng, khiến cho quư vị bất tri bất
giác làm những chuyện bất thiện, chẳng phải
là quư vị muốn làm, thế mà vẫn làm. Đó là tiềm
ư thức phát sanh sức mạnh. Hiểu đạo lư này, liễu
giải sự thật này, chúng ta rèn luyện chính ḿnh trong
cuộc sống là chuyện quan trọng hơn bất cứ
điều ǵ khác! Hăy nên thời thời khắc khắc
ghi sâu ấn tượng về Phật trong A Lại Da.
Đại Thế Chí Bồ Tát dạy chúng ta “ức Phật, niệm Phật”.
“Ức” (憶) là nghĩ, trong
tâm tưởng Phật, miệng niệm Phật, “hiện tiền, tương lai,
nhất định thấy Phật”. Hiện tiền sẽ
thấy trong Định, hoặc thấy trong mộng,
tương lai văng sanh Tây Phương Cực Lạc thế
giới, sẽ chẳng c̣n ĺa khỏi Phật. Do vậy có
thể biết: Đại sự bậc nhất đối
với người tu hành là phải biến đổi kư ức
trong A Lại Da thành A Di Đà Phật. Đối với bất
luận thuận cảnh, nghịch cảnh, thiện duyên,
ác duyên trong quá khứ, đều phải dùng A Di Đà Phật,
dùng kinh Vô Lượng Thọ để thay thế nó.
Cũng v́ những ấn tượng trong quá khứ quá sâu,
duyên quá sâu, nay chúng ta phải làm cho ấn tượng về
Phật, về kinh Vô Lượng Thọ, về A Di Đà
Phật sâu đậm hơn. Mỗi ngày đều làm việc
này, thật sự niệm Phật, trong tâm quư vị thật
sự có Phật. Phật ở trong tâm quư vị, đó mới
đại sự bậc nhất trong một đời
này. Tu thành công đại sự này, xin chúc mừng quư vị,
quư vị đă thoát ly lục đạo luân hồi, thoát ly
mười pháp giới, nhất định văng sanh Tịnh
Độ. Đó là ư nghĩa thứ nhất.
Ư nghĩa thứ
hai càng hay hơn. “Chân Giải
viết: Tức văn tŕ tam thế nhất thiết
Như Lai pháp tạng” (Sách Chân Giải chép: “Chính là nghe,
tŕ pháp tạng của ba đời hết thảy các đức
Như Lai”), nói đến điều ǵ? Chưa nói tới
quá khứ và vị lai chư Phật, chỉ nói kinh tạng
do hiện tại Thích Ca Mâu Ni Phật để lại cho
chúng ta, nói đến pháp tạng ấy, “đa văn quy nhất văn”, câu này hết sức
quan trọng. “Nhất văn”
là ǵ? “Nhất văn tức thị
văn kỳ danh hiệu” (nhất văn chính là nghe danh
hiệu này). Trong các buổi giảng, chúng tôi đă nhiều
lần nói tới chuyện này: Cổ đại đức
đă quy nạp, đối với hết thảy các kinh
do đức Thế Tôn đă nói trong bốn mươi chín
năm trong lúc Ngài tại thế, bộ kinh nào có thể
đại diện cho hết thảy các kinh do đức
Phật đă nói trong bốn mươi chín năm? Các vị
tổ sư đại đức các tông phái trong thời
đại Tùy - Đường hầu như nhất trí
công nhận bộ kinh ấy là Đại Phương Quảng
Phật Hoa Nghiêm Kinh, gọi kinh ấy là “căn bản pháp luân”. Hết thảy các kinh là
cành lá của kinh căn bản. Đây là dùng một cội
cây to để tỷ dụ, Hoa Nghiêm là ǵ? Hoa Nghiêm là rễ
cây, là gốc cây, hết thảy các kinh đă nói trong bốn
mươi chín năm là cành lá của Hoa Nghiêm. Hoa Nghiêm là
pháp tạng của hết thảy các đức Như Lai.
Hoa Nghiêm đạt đến chỗ viên măn cuối cùng là
mười đại nguyện vương của Phổ
Hiền Bồ Tát dẫn về Cực Lạc th́ Hoa Nghiêm mới
viên măn. Câu này quan trọng, là thật, chẳng giả.
Chương cuối cùng ấy chính là tổng kết của
kinh Hoa Nghiêm. Nếu chẳng có chương ấy, Hoa Nghiêm
sẽ chẳng độ chúng sanh viên măn, v́ chỉ độ
bậc thượng thượng căn, kẻ trung hạ
căn chẳng có phần! Có chương ấy, sẽ là thích
hợp khắp ba căn, thâu nhiếp lợi căn lẫn
độn căn, hết thảy chúng sanh đều có thể
nhập cảnh giới Hoa Nghiêm, [bởi lẽ], Tây
Phương Cực Lạc thế giới là cảnh giới
Hoa Nghiêm. V́ lẽ đó, cổ nhân mới nói: “Hoa Nghiêm và Pháp Hoa cũng đều
nhằm dẫn đường cho kinh Vô Lượng Thọ”,
có nghĩa là: Kinh Hoa Nghiêm và kinh Pháp Hoa dẫn dắt quư vị
tiến nhập kinh Vô Lượng Thọ, nhập thế
giới Cực Lạc. Chúng ta chớ nên không hiểu ư nghĩa
này! Không chỉ phải hiểu, mà c̣n phải thừa nhận
rất sâu, th́ nguyện tâm của chúng ta mới chẳng bị
thoái chuyển, mục tiêu và phương hướng tu học
của chúng ta mới chẳng bị biến đổi. Bất
luận trong hoàn cảnh nào, chúng ta vẫn giữ một
phương hướng, một mục tiêu là thế giới
Cực Lạc. Chuyện này trọng yếu lắm!
Kinh Hoa Nghiêm quy vào
Vô Lượng Thọ. Nay bản kinh Vô Lượng Thọ
chúng ta đang dùng do Hạ lăo cư sĩ hội tập gồm
có bốn mươi tám phẩm, nói là “bốn mươi
tám chương” cũng được, phẩm nào quan trọng
nhất? T́m ra phẩm bậc nhất, phẩm nào là bậc
nhất? Cổ đại đức đă nói từ sớm,
phẩm thứ sáu là bậc nhất, v́ phẩm thứ sáu
là bốn mươi tám nguyện. Bốn mươi tám nguyện
gồm bốn mươi tám điều, nguyện nào lại
là bậc nhất? Truy cầu không ngừng, truy đến
cuối cùng th́ nguyện thứ mười tám là bậc nhất.
Nguyện mười tám nói ǵ? Mười niệm ắt
văng sanh, [tức là] khi lâm chung, mười niệm quyết
định sanh về thế giới Cực Lạc, đó
chính là công đức chẳng thể nghĩ bàn của danh
hiệu này! V́ thế, quy vào “nhất
văn”. “Nhất văn”
là nghe danh hiệu này, tức là [nội dung của] nguyện
thứ mười tám. V́ vậy, tại Nhật Bản có một
chi phái chuyên tu nguyện thứ mười tám, chẳng cần
đến các nguyện khác, gọi là Bổn Nguyện Niệm
Phật. Được không? Chẳng thể nói là không
được, mà cũng chẳng thể nói là được.
Phải nên nói ra sao? Nếu họ thật sự là một
câu A Di Đà Phật, vạn duyên khác đều buông xuống
th́ được! Nếu kẻ ấy chỉ niệm một
câu A Di Đà Phật, nhưng muôn duyên khác vẫn chẳng
buông xuống th́ không được! Kẻ ấy có quá nhiều
chướng ngại, nghiệp chướng, tập khí chẳng
đoạn hết, vẫn bị những thứ ấy quấy
nhiễu, vậy th́ không được rồi. Thật sự
thấy thấu suốt, thật sự buông xuống, đúng
là [chỉ] một câu A Di Đà Phật đă được
rồi, chẳng phải là không được, không sai! Sự
thành tựu trong Tinh Tấn Niệm Phật Đường
có đạo lư như vậy đó, chúng ta phải hiểu.
Hiện thời, có nhiều người thành tựu, niệm
Phật, niệm một câu Phật hiệu đến cùng,
thêm ǵ vào để phụ trợ? Thêm kinh A Di Đà, hoặc
thêm kinh Vô Lượng Thọ. Nếu mỗi ngày đọc
tụng kinh Vô Lượng Thọ, hoặc đọc tụng
kinh A Di Đà, chẳng khuất phục phiền năo, nghiệp
chướng vẫn hiện tiền, khi ấy, công phu niệm
Phật của quư vị chẳng đắc lực, phải
làm như thế nào? Nhất định là phải tu pháp
môn sám hối, tŕ giới sám hối, phải trừ hết
ám chướng th́ mới được. Quư vị chẳng
trừ hết ám chướng, tuy có tín tâm, nhưng tín tâm chẳng
kiên cố, có nghi hoặc trong ấy, nhưng chính quư vị
chẳng biết, nguyện lực chẳng thiết tha.
Thiên
Thân Bồ Tát có ba anh em. Anh cả là Vô Trước Bồ
Tát, anh hai là Sư Tử Giác, Thiên Thân Bồ Tát là em thứ
ba. Cả ba vị đều tu Di Lặc Tịnh Độ.
Anh hai văng sanh trước, ba anh em đă ước định
sẵn, họ sanh về Di Lặc Tịnh Độ, thân cận
Di Lặc Bồ Tát: “Sau khi sanh về đó, bèn lập tức
trở về báo tin cho chúng tôi”. Anh hai là Sư Tử Giác sau
khi văng sanh bèn chẳng có tin tức, đợi bao nhiêu
năm chẳng thấy tin tức. Ngài Vô Trước văng
sanh, ba năm sau mới quay lại báo tin cho Thiên Thân Bồ
Tát. Ngài Thiên Thân nói: “Anh đi ba năm mới quay về, sao
không quay về ngay lập tức?” Ngài Vô Trước nói: “Ta
về ngay đó chứ! Thời gian trên Đâu Suất Thiên
vốn khác biệt chúng ta. Một ngày trên Đâu Suất
Thiên bằng bốn trăm năm trong nhân gian”. Ngài nói: “Ta gặp
Di Lặc Bồ Tát xong lập tức quay về nói cho
ngươi biết, trong nhân gian đă ba năm trôi qua”. Quả
thật là ở trên Đâu Suất Thiên đại khái
chưa đến một tiếng đồng hồ, thời
gian chỉ chừng mấy phút mà nhân gian đă là ba năm. Ngài
Thiên Thân liền hỏi: “Anh hai ở đâu?” “Anh hai đă
đến ngoại viện của Đâu Suất Thiên, thấy
ngoại viện rất đẹp, rất lưu luyến,
c̣n chưa vào nội viện, đến đó hưởng
phước rồi”. Hoàn cảnh nơi ấy vô cùng tốt
đẹp, ngài Sư Tử Giác vừa trông thấy bèn khởi
tâm tham. Câu chuyện này thật sự có thể cảnh tỉnh
mọi người. V́ lẽ đó, chúng tôi liền hoảng
nhiên đại ngộ v́ sao đức Phật dạy chúng
ta “lấy khổ làm thầy”.
Trong thế gian này, cuộc sống khổ sở một
chút, tốt lắm. Cuộc sống khổ sở, sẽ
chẳng có ư niệm lưu luyến. Nếu cuộc sống
trong thế gian này quá an nhàn, sung túc, quá xa xỉ, sẽ chẳng
nỡ rời khỏi. Đối với phước báo
trong nhân gian mà c̣n như thế, nếu quư vị lên đến
cơi trời, thấy chư thiên, dấy lên một niệm
[tham luyến]. Khởi lên một niệm như vậy, sẽ
ngay lập tức đọa xuống, sẽ chẳng có phần
trong thế giới Cực Lạc, quư vị thấy
đáng sợ lắm!
Do
đó, chớ nên hưởng phước! Cổ nhân
thường nói “trong phước
có họa”, chữ Họa (禍) và Phước (福) viết theo tiếng Hán rất giống nhau, cho thấy
họa và phước rất khó phân định rạch
ṛi, rốt cuộc là phước hay họa, ai biết!
Phước rất dễ dàng biến thành họa, nhưng
họa cũng chẳng dễ ǵ biến thành phước!
Cho thấy phước chẳng có sức mạnh to lớn
như họa. Tổ tiên chúng ta có trí huệ, có tâm cảnh
giác rất cao, tạo ra văn tự, khiến cho chúng ta thấy
h́nh tượng của những chữ ấy bèn có thể
nâng cao tâm cảnh giác của chính ḿnh. Trên cả thế giới,
trong bất cứ quốc gia hay dân tộc nào, cũng đều
chẳng có chuyện này. Văn tự tiếng Hán là phù hiệu
trí huệ. Ân trạch của tổ tiên đối với
hậu thế sâu dầy, báo đáp bằng cách nào? Con
người hiện thời ngày càng chẳng nhận biết
tổ tông, càng ngày càng chẳng tôn kính tổ tông, tai họa
liền xảy tới. Chẳng biết báo ân, chẳng biết
ân đức. Chuyện này không thể trách chúng ta! Kinh Vô
Lượng Thọ đă nói rất hay: “Tiên nhân bất thiện (vô tri), bất thức đạo
đức, vô hữu ngữ giả, thù vô quái dă” (Kẻ
trước bất thiện (vô tri), chẳng biết đến
đạo đức, chẳng có ai nói với họ, trọn
chẳng đáng trách). Nói rất hay! Chúng ta sanh nhằm thời
chiến tranh, loạn lạc, suốt đời sống
trong cảnh chiến tranh tao loạn, hằng ngày sống
cuộc đời lưu lạc, cha mẹ chẳng dạy
dỗ chúng ta, thầy cũng chẳng dạy chúng ta, làm sao
chúng ta có thể biết được? Một đời
tôi, lúc nhỏ đắc lực nhờ cha mẹ dạy
tôi tôn sư trọng đạo, những tao ngộ trong suốt
một đời có quan hệ hết sức to lớn với
chuyện ấy. Lúc hai mươi mấy tuổi, tôi gặp
ba vị thầy, thầy nhiệt tâm dạy dỗ tôi v́ lẽ
nào? Tôi chẳng có sở trường ǵ! Đại khái là
các thầy nh́n vào thái độ tôn sư trọng đạo
ấy. Thầy thật sự dạy tôi, tôi cũng thật
sự chịu học tập, quay trở lại như vậy,
học tập văn hóa truyền thống.
Tôi
biết ba căn bản Nho, Thích, Đạo rất trọng
yếu, đắc lực là do Chương Gia đại
sư suốt ba năm nhắc nhở tôi bằng một
câu nói: “Giới luật rất
trọng yếu”. Tôi vốn cũng sơ sót điều
ấy, lăo nhân gia đă khuất bóng, tôi mới khởi tâm cảnh
giác: Thầy đă mất rồi! Thầy c̣n sống, tôi có
nơi nương tựa. Thầy đă khuất,
nương tựa ai? Thân cận thầy ba năm, thầy
dạy tôi những ǵ? Bèn nghiêm túc phản tỉnh sâu xa. Trong
lần phản tỉnh đó, ư niệm ấy liền hiện
tiền, giới luật rất trọng yếu! V́ thầy
bảo tôi câu ấy mấy chục lần, ấn tượng
hết sức sâu đậm! V́ sao thầy cũng chẳng
nói câu ấy cặn kẽ, chỉ nhẹ nhàng nhắc nhở
như vậy? Nhắc tới mười mấy lần, mấy
chục lần! Tôi cũng dùng thời gian mười
năm, hai mươi năm để thường xuyên hồi
tưởng chiêm nghiệm, lại nh́n vào t́nh trạng xă hội
hiện tiền, hoảng nhiên đại ngộ! Hiện
thời, chúng ta sai sót ở chỗ nào? Sai sót ở chỗ
thiếu cội rễ! Chẳng phải là không dụng công,
chẳng phải là không nỗ lực, mà là thiếu cội
rễ, chẳng tu từ căn bản, luôn tu nơi cành lá.
V́ lẽ đó, bất luận tu như thế nào, tu suốt
đời vẫn chẳng thể thành tựu! Đă t́m được
nguyên nhân, mới thật sự hiểu Đệ Tử
Quy của Nho Gia, Cảm Ứng Thiên của Đạo Gia,
những năm xưa đều đă học, lại c̣n đă
từng giảng, Thập Thiện Nghiệp Đạo của
nhà Phật, người xuất gia nhất định phải
tu Sa Di Luật Nghi. Những thứ ấy chẳng để
niệm suông, chẳng phải để nói suông, mà là cuộc
sống, khởi tâm động niệm, ngôn ngữ, tạo
tác của chính ḿnh! Khởi tâm động niệm, ngôn ngữ,
tạo tác có tương ứng với giới điều
cơ bản hay không? Hễ tương ứng th́ là thiện,
chẳng tương ứng là ác; tiêu chuẩn đoạn
ác tu thiện ở chỗ này. Tiêu chuẩn ấy do thánh
nhân trong Tam Giáo định ra, do Tánh Đức tự nhiên lưu
lộ, chẳng do người nào sáng chế, chẳng do một
ai sáng tạo, chẳng phải vậy. Chúng là Tánh Đức
trong tự tánh lưu lộ. Nói cách khác, bản tánh của
con người vốn lành. V́ sao nói là vốn lành? Họ vốn
là như vậy! Nay tư tưởng, lời nói và việc
làm của quư vị biến đổi, chẳng giống với
Tánh Đức, đó là ǵ? Quư vị đă học theo cái xấu,
đó là tập tánh. “Tánh
tương cận, tập tương viễn” (bản
tánh gần giống như nhau, nhưng do huân tập mà khác
xa nhau), đó là tập tánh. Quư vị đă học theo cái xấu,
chẳng ai dạy dỗ quư vị đàng hoàng, nguyên nhân là
như thế đó. Có những căn cội này, tối
thiểu là có ba căn cội, cộng thêm Sa Di Luật Nghi
thành bốn căn cội th́ một câu Phật hiệu [là
đủ rồi], chẳng cần ǵ nữa, do một câu
A Di Đà Phật mà quyết định được
sanh về Tịnh Độ. Hơn nữa, phẩm vị
văng sanh hoàn toàn phụ thuộc vào công phu, tức công phu tŕ
danh của quư vị. Nếu tŕ danh mà niệm đến mức
Sự nhất tâm bất loạn, đắc Niệm Phật
tam-muội, quư vị sẽ sanh trong cơi Phương Tiện
Hữu Dư. Quư vị niệm đến mức Lư nhất
tâm bất loạn, sẽ sanh trong cơi Thật Báo Trang Nghiêm,
do một câu danh hiệu này. V́ thế, “nhất văn” chính là nghe danh hiệu này!
“Thị
dĩ văn Phật danh hiệu, vi thọ tŕ thậm thâm
pháp tạng dă, di hợp Tịnh Tông” (Do vậy, nghe danh
hiệu Phật là thọ tŕ pháp tạng rất sâu, rất
phù hợp với Tịnh Tông), hoàn toàn tương ứng với
tông chỉ của Tịnh Tông. Từ giáo nghĩa này, chúng
ta nghĩ lại, trong một đời này, đặc biệt
là trong xă hội hiện tại, đang nhằm thời
đại địa cầu xảy ra tai nạn liên tiếp,
chúng ta buông xuống vạn duyên, buông xuống tất cả
hết thảy các kinh luận trong Phật môn, hết thảy
các pháp môn đều buông xuống, một bộ kinh Vô
Lượng Thọ, một câu danh hiệu A Di Đà Phật,
có phải là thọ tŕ pháp tạng rất sâu của Như
Lai hay không? Thưa cùng chư vị, đúng vậy, chẳng
sai tí nào! Câu kinh văn này viết về đức lợi
tha của Bồ Tát: Bồ Tát có thể dạy người
khác như vậy, dạy người khác thọ tŕ pháp tạng
rất sâu của Như Lai; nhưng những kẻ ấy
chẳng nghe. V́ sao chẳng nghe? Họ chẳng nhận biết
giá trị. Tam Tạng mười hai phần giáo mênh mông
như hơi khói trên mặt biển, [thế mà] quư vị nói
pháp này là bậc nhất, ai tin tưởng? Tôi theo thầy
Lư mười năm, lăo nhân gia khuyên tôi suốt mười
năm, tôi đều chẳng tiếp nhận, quư vị nói
xem tin pháp này có khó hay không? V́ thế, cổ đức nói pháp
môn này là pháp khó tin, tôi lănh hội sâu xa. Thầy khuyên như
thế nào, tôi có thái độ như thế nào? Chẳng phản
đối pháp môn này, tôi cũng rất tôn trọng pháp môn
này, nhưng kẻ tuổi trẻ ham chuộng học rộng,
nghe nhiều, quư vị dạy tôi học pháp này, tôi chẳng
đành ḷng, chẳng t́nh nguyện. V́ thế, sách vở các
tông các phái tôi đều học, nay biết là học tạp,
học loạn, đối với mỗi tông phái đều
hiểu vơ vẽ bề ngoài, đều chẳng thể
thâm nhập. Tuy tôi cũng biết, kinh luận, tổ
sư đều dạy “thâm nhập
một môn, huân tu lâu dài”, tôi cũng biết nói [như vậy],
tôi cũng nói cho kẻ khác nghe, nhưng bản thân tôi chẳng
làm được. Đây là ǵ? Pháp khó tin!
Tới
khi nào tôi mới quy hướng, mới tin tưởng Tịnh
Độ? Gần như là ba mươi năm. Tôi học
Phật đến năm nay là năm mươi chín
năm, nửa thời gian đầu là giảng kinh Hoa
Nghiêm, đúng là ba mươi năm. Lần đầu tiên
tôi giảng kinh Hoa Nghiêm ở Đài Loan, tôi nhớ khi ấy
là năm Dân Quốc 60 (1971), năm nay là năm Dân Quốc
99 (2010). Vào năm Dân Quốc sáu mươi mấy, kinh Hoa
Nghiêm đă giảng được một nửa, bỗng
dưng có một ngày nghĩ: Văn Thù và Phổ Hiền tu pháp
môn ǵ? Thiện Tài đồng tử học pháp môn ǵ? Tôi c̣n
chưa giảng đến phần sau của bản kinh, mới
giảng một nửa, bèn lật tới phần sau, lật
đến cuối cùng, phát hiện Văn Thù và Phổ Hiền
đều phát nguyện cầu sanh thế giới Cực
Lạc. Lại quan sát cẩn thận sự tu học của
Thiện Tài đồng tử bèn hiểu. Quư vị thấy
tôi giảng Tứ Thập Hoa Nghiêm đă được một
nửa mà chưa phát hiện, nay cố ư tra duyệt, t́m ṭi,
mới phát hiện: Thiện Tài là môn sanh đắc ư của
Văn Thù Bồ Tát, đương nhiên là tu cùng một pháp
môn với thầy. Thầy tu pháp môn Niệm Phật, tṛ c̣n
có thể ra ngoài lệ ấy hay chăng? Xem kỹ, quả
nhiên chẳng sai! Thầy bảo Ngài đi tham học, giới
thiệu một vị thiện tri thức, bảo Ngài
đến gặp vị ấy. Vị thiện tri thức
ấy là tỳ-kheo Cát Tường Vân, tu pháp ǵ? Tu Bát Châu tam-muội,
chuyên niệm A Di Đà Phật cầu sanh Tịnh Độ.
Người Hoa nói “tiên nhập
vi chủ” (điều ǵ được tiếp xúc
đầu tiên sẽ là chủ yếu), người Ấn
Độ cũng nói kiểu ấy. Biết Thiện Tài tu
pháp ǵ th́ mới hiểu rơ. Lại xem vị [thiện tri thức]
cuối cùng, vị cuối cùng là Phổ Hiền Bồ Tát,
mười đại nguyện vương dẫn về
Cực Lạc, đó là ǵ? Thiện Tài đồng tử từ
đầu đến cuối là niệm A Di Đà Phật.
Tôi mới hiểu mật nghĩa rất sâu trong Khoa Phán của
Thanh Lương đại sư: Năm mươi ba lần
tham học, đối với mỗi vị thiện tri thức,
đến cuối cùng Thiện Tài đồng tử đều
là “luyến đức lễ từ”,
Thanh Lương đại sư viết khoa phán như vậy.
Bốn chữ ấy có ư nghĩa rất sâu, “luyến đức” (戀德) là cảm ơn,
cảm tạ quư vị đă chỉ dạy,“lễ từ” (禮辭) là ǵ? Chẳng học
pháp môn này, pháp môn này tôi đă biết, đă hiểu,
nhưng tôi vẫn niệm Phật. Từ chỗ ngài Cát
Tường Vân học tập pháp môn Niệm Phật, một
mực chẳng biến đổi, cuối cùng là Phổ
Hiền Bồ Tát dẫn về Cực Lạc. Do vậy,
ai là người tiếp dẫn tôi về pháp môn Tịnh
Tông? Hai vị Bồ Tát Văn Thù và Phổ Hiền trong kinh
Hoa Nghiêm đă tiếp dẫn tôi, nên mới khăng
khăng một mực quy y Tịnh Độ, mới nghiêm
túc học tập kinh luận Tịnh Tông. Không dễ dàng, hết
sức chẳng dễ dàng, từ Giáo Hạ quay đầu
quy y Tịnh Độ. V́ vậy, [thọ tŕ] một câu Phật
hiệu, một bộ kinh Vô Lượng Thọ xác thực
là thọ tŕ pháp tạng rất sâu của Như Lai.
Chúng ta lại xem
phần tiếp theo, câu kế tiếp là “hộ Phật chủng tánh thường sử bất
tuyệt” (hộ tŕ chủng tánh của Phật khiến
cho thường chẳng đoạn dứt). Câu này nếu
nói theo cách hiện thời [sẽ là]: Nếu người học
Phật muốn thành tựu, trước hết phải học
yêu thương chính ḿnh, câu này là yêu thương chính ḿnh.
Yêu ǵ vậy? Yêu mến chủng tánh Phật của chính ḿnh.
Trong giáo pháp Đại Thừa, đức Thế Tôn
thường nói: “Hết thảy
chúng sanh đều có trí huệ và đức tướng của
Như Lai”, đó là chủng tánh của Phật. Chúng ta đọc
phần chú giải kế đó: “Hộ
giả, duy hộ. Phật chủng tánh giả, hữu
đa thuyết” (Hộ (護) là bảo vệ.
Đối với chủng tánh của Phật, có nhiều
thuyết). Có rất nhiều cách nói, đều được
nêu lên ở đây:
1) “Thám Huyền Kư thập nhất viết: Bồ Tát sở
hạnh, danh vi Phật chủng” (Sách Thám Huyền Kư, quyển
thứ mười một giảng: “Các hạnh của Bồ
Tát được gọi là chủng tánh của Phật”).
Sở hạnh của Bồ Tát là ǵ? Lục Ba La Mật, hoặc
Thập Ba La Mật. Lục Ba La Mật là Bố Thí, Tŕ Giới,
Nhẫn Nhục, Tinh Tấn, Thiền Định, Bát Nhă. Thập
Ba La Mật là sau đó c̣n thêm Phương Tiện, Nguyện,
Lực, Trí như được nói trong kinh Hoa Nghiêm. Tịnh
Tông chúng ta tu học năm khoa mục là Tam Phước, Lục
Ḥa, Tam Học, Lục Độ, Phổ Hiền Bồ Tát thập
nguyện; đó là những điều được
đề xướng bởi Tịnh Tông Học Hội.
Đó là Phật chủng. Thông thường, chúng tôi giới
thiệu một cách đơn giản nhất đối với
các bạn đồng tu sơ học bằng hai
mươi chữ “chân thành,
thanh tịnh, b́nh đẳng, chánh giác, từ bi, nh́n thấu,
buông xuống, tự tại, tùy duyên, niệm Phật”,
đó là chủng tánh của Phật. Niệm đâu nghĩ
đấy, niệm niệm chẳng quên, tâm hạnh
tương ứng, bất luận tu học pháp môn nào
cũng đều có thể thành tựu.
2) “Tịnh Ảnh Sớ viết: Pháp
giới chư độ, thị Phật chủng tánh”
(Tịnh Ảnh Sớ giảng: “Các độ trong pháp giới
là chủng tánh của Phật”). Hai cách nói này giống nhau. “Quân dĩ Bồ Tát sở hành chi
lục độ vạn hạnh vi Phật chủng tánh” (đều
cùng lấy lục đạo vạn hạnh do Bồ Tát
đă hành làm chủng tánh của Phật). “
Trong
Phật môn thường nói “vạn
pháp quy nhất”, kinh Kim Cang nói thế giới là “nhất hiệp tướng”,
điều này có ư nghĩa hoàn toàn khẳng định khắp
pháp giới hư không giới và chính ḿnh là một Thể,
sự nhận biết này hết sức đáng quư. Kinh
Đại Thừa nói đến pháp môn Bất Nhị, Bất
Nhị là một, chúng sanh và Phật bất nhị, chúng
sanh và Phật là một, không hai. Chúng sanh và Phật đă là
một, không hai, làm sao có thể nói A Di Đà Phật và Tỳ
Lô Giá Na là hai, há có đạo lư ấy? Chúng ta đă học
Hoàn Nguyên Quán nên biết: Hết thảy các pháp, chư Phật,
Bồ Tát, y báo và chánh báo trang nghiêm trong mười pháp giới
đều do tự tánh biến hiện, chẳng có một
pháp nào ĺa khỏi tự tánh. V́ thế, kinh dạy: “Ngoài tâm chẳng có pháp, ngoài pháp
chẳng có tâm”, nói rơ điều ǵ? Một Thể. Một
Thể th́ tâm đại từ bi trong tự tánh mới
lưu lộ, tâm đại từ bi chính là tâm yêu
thương thanh tịnh b́nh đẳng, là thật, chẳng
giả. “Thật” có nghĩa là ǵ? Vĩnh hằng bất biến,
đó là thật. Khi người thế gian nói đến
yêu thương, quư vị phải hiểu: Đó là hư
t́nh giả ư, chẳng thật. Nếu quư vị ngỡ là
thật, sẽ chịu khổ, phải biết nó là giả,
sẽ biến đổi. Chỉ có từ bi từ tự
tánh lưu lộ, [mới là] vĩnh hằng, bất biến,
bất luận trong thuận cảnh hay nghịch cảnh,
đều luôn chân thành như vậy, người hiện
thời nói là “nhiệt ái”
(t́nh yêu thương nồng nhiệt). “Độ sanh tử lưu, đăng Niết Bàn ngạn”
(vượt ḍng sanh tử, lên bờ Niết Bàn), “Niết Bàn ngạn” là bất
sanh, bất diệt. Nói theo Sự, đó là cơi Thật Báo
Trang Nghiêm của chư Phật, Bồ Tát. Nói theo Lư, chính là
Thường Tịch Quang Tịnh Độ. Trở về
tự tánh, chính là thật sự lên bờ Niết Bàn. V́ thế,
dùng Độ để gọi chủng tánh của Phật!
“Hựu
Hội Sớ cứ chư kinh luận, tiêu cử Phật
chủng tánh chi tứ nghĩa, kim đản cử kỳ
tam” (lại nữa, sách Hội Sớ dựa theo các kinh
luận, nêu ra bốn nghĩa của “chủng tánh Phật”,
nay chỉ dẫn ba điều). Sách Hội Sớ giảng
bốn ư nghĩa, ở đây chỉ nói ba điều.
1) Thứ nhất
là “chúng sanh sẵn có Phật
Tánh”. Kinh nói chuyện này rất nhiều. Hết thảy
chúng sanh đều có Phật Tánh. Phật Tánh và tự tánh
là một tánh, nhưng chúng có sai biệt, sai biệt ở
chỗ nào? Phật nghĩa là giác, cũng có thể nói là
[Pháp Tánh] chuyên chỉ trí huệ và đức tướng
trong tự tánh. Nếu chỉ nói đến một thứ
là trí huệ th́ trí huệ là Phật Tánh. Nếu nói Pháp Tánh,
sẽ bao gồm toàn bộ, trí huệ, đức năng, và
tướng hảo thảy đều được bao gồm.
Nói là tự tánh hoặc Pháp Tánh sẽ đều gồm trọn,
nói Phật Tánh tức là chỉ nói đến trí huệ. Tác
dụng của trí huệ là giác, giác tánh. “Chúng sanh tâm trung cụ Như Lai Tánh, bổn lai bất
biến, năng sanh quá hằng sa công đức, đản
vị vô minh sở tế, tuy hữu đồng vô. Bồ
Tát vị hưng giáo hóa, khai phát bỉ bổn cụ chi
Như Lai Tạng, danh vi thiệu long Phật chủng” (trong
tâm chúng sanh trọn đủ Như Lai Tánh, vốn chẳng
thay đổi, có thể sanh ra hằng sa công đức,
nhưng bị vô minh che lấp, nên tuy có mà cũng như
không. V́ hưng khởi sự giáo hóa, Bồ Tát bèn khai phát
Như Lai Tạng sẵn có, đó gọi là “tiếp nối
hưng thịnh gịng giống Phật”). Đây là ư nghĩa thứ
nhất, là căn cứ để kết luận tổng
hợp những điều đă được nói trong kinh
luận. Trong tâm chúng sanh có Như Lai Tánh chân thật, đó
là thật, chư vị phải ghi nhớ, nó vĩnh hằng
bất biến, là thật. Đó gọi là “tại thánh chẳng tăng, nơi phàm chẳng giảm”.
Trong tương lai, quư vị thành Phật, Như Lai Tánh của
quư vị chẳng tăng thêm chút nào! Quư vị tạo tội
nghiệp đọa trong A Tỳ địa ngục, nó cũng
chẳng giảm tí nào! Nó vĩnh viễn chẳng thay đổi.
Quư vị thấy đó: Nó vốn chẳng thay đổi,
nếu gặp duyên, nó có thể sanh ([sách Hội Sớ viết
là] “quá”, Quá là vượt
qua), vượt trội hằng sa công đức. “Hằng sa” là tỷ dụ vô
lượng vô biên, vô cùng, vô tận, có thể xuất hiện
công đức như vậy. Gặp duyên có thể sanh ra
công đức ấy. Hết sức đáng tiếc! Nay quư
vị bị vô minh chướng ngại; tuy có, nó chẳng
khởi tác dụng, nên tuy có mà cũng như không!
Vô minh là ǵ? Chúng ta
phải ghi nhớ: Khởi tâm động niệm là vô minh.
Phân biệt là Trần Sa phiền năo, chấp trước
là “vô minh”, tức là đă
bao gồm các phiền năo ấy. Chúng ta có Vô Minh, có Trần
Sa, có Kiến Tư, nên tuy có [Như Lai Tánh] mà vẫn như
không! Phải đoạn cả ba thứ phiền năo này,
toàn bộ đều buông xuống th́ Như Lai Tạng sẵn
có tức Như Lai Tánh chân thật trong tâm chúng ta mới hiện
tiền, sẽ giống như Huệ Năng đại
sư đă nói. Ngài khai ngộ, khai ngộ là t́nh trạng
như thế nào? Ngài nói năm câu, “nào ngờ tự tánh, vốn tự thanh tịnh”,
phải ghi nhớ câu này, chưa hề bị nhuốm bẩn,
v́ nó là thật. “Vốn chẳng
sanh diệt”: Vốn chẳng sanh diệt là Đại
Bát Niết Bàn, nên minh tâm kiến tánh được gọi
là “đăng Niết Bàn ngạn”
(lên bờ Niết Bàn). Quư vị đă kiến tánh, thật
sự chứng đắc bất sanh bất diệt. Câu thứ
ba là “vốn tự trọn
đủ”, nó trọn đủ trí huệ và đức
tướng. “Đức” ở
đây là nói đến hằng sa công đức, “Tướng” là vô lượng
tướng hảo, người hiện thời gọi là
“phước báo”. Phạm vi
của tướng hảo c̣n lớn hơn phước
báo! Hết thảy đều trọn đủ trong tự
tánh, chẳng cần cầu từ bên ngoài. Hai câu cuối
cùng là: “Vốn chẳng dao
động”, đó là tự tánh vốn định, cuối
cùng là “có thể sanh ra muôn pháp”, khắp pháp giới hư không
giới đều do tự tánh sanh và hiện. Y báo và chánh
báo trang nghiêm trong mười pháp giới đều do A Lại
Da biến ra. Sau khi đă mê mới biến; đă giác ngộ,
sẽ chẳng biến. Do chẳng thay đổi, nên gọi
là Nhất Chân, cái bị biến là mười pháp giới.
“Bồ
Tát vị hưng giáo hóa, khai phát bỉ bổn cụ chi
Như Lai Tạng, danh vi thiệu long Phật chủng”
(Bồ Tát v́ hưng khởi sự giáo hóa mà khai phát Như
Lai Tạng vốn sẵn có, đó gọi là “tiếp nối
hưng thịnh gịng giống Phật”). Nói rất hay! “Hưng” (興) là hưng khởi,
kiến lập; nói theo cách hiện thời sẽ là sáng lập
Phật giáo, “hưng” chính là
sáng lập. V́ sao phải hưng khởi sự giáo hóa? Khi Thích
Ca Mâu Ni Phật xuất hiện, v́ sao Ngài phải kiến lập
nền giáo dục của Phật Đà để giáo hóa
chúng sanh? Mục đích là khai phát Như Lai Tạng mà chúng
sanh vốn sẵn có, đó là mục tiêu giáo học của
Thích Ca Mâu Ni Phật trong bốn mươi chín năm. Như
Lai Tạng vốn sẵn có là ǵ? Vô Thượng Chánh Đẳng
Chánh Giác. A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề dịch
sang tiếng Hán sẽ là Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh
Giác, chúng sanh vốn sẵn có. Quư vị thấy kinh nói rất
rơ ràng, rất minh bạch: Quư vị buông chấp trước
xuống, Chánh Giác liền hiện tiền. Chấp trước
chướng ngại Chánh Giác của quư vị, hăy buông xuống!
Điều ǵ cũng chẳng chấp trước, pháp thế
gian và xuất thế gian ta đều chẳng chấp
trước, Chánh Giác hiện tiền. Buông phân biệt xuống,
phân biệt vi tế hơn chấp trước. Không chỉ
chẳng chấp trước, mà tâm phân biệt cũng chẳng
có, quư vị liền thành Chánh Đẳng Chánh Giác. Cuối
cùng, không chỉ chẳng có phân biệt chấp trước,
mà khởi tâm động niệm cũng chẳng có, quư vị
liền chứng đắc Vô Thượng Chánh Đẳng
Chánh Giác. Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác là Như
Lai Tạng viên măn, đă thành Phật. Ba thứ phiền năo
ấy thảy đều trọn đủ, thứ ǵ
cũng chẳng đoạn, quư vị là lục đạo
phàm phu, luân hồi trong lục đạo. V́ thế, đức
Phật xuất hiện trên thế gian này, sáng lập nền
giáo dục của đức Phật, mục đích là giúp
đỡ hết thảy chúng sanh “hộ Phật chủng tánh, thường sử bất
tuyệt” (bảo vệ chủng tánh của Phật, khiến
cho thường c̣n chẳng dứt), ư nghĩa ở chỗ
này. Chủng tánh của Phật ở chỗ nào? Chủng
tánh của Phật ở ngay trên thân quư vị, chẳng ở
nơi người khác! Quư vị chỉ cần buông vọng
tưởng, phân biệt, chấp trước xuống, nó
liền hiện tiền.
Chuyện
là như thế đó, quư vị thấy đức Phật
tốn thời gian bốn mươi chín năm, có thành tích
hay chăng? Có! Quả thật là trong các đệ tử Phật,
có không ít người chứng đắc Vô Thượng
Chánh Đẳng Chánh Giác, người thành Chánh Đẳng Chánh
Giác nhiều hơn, người thành Chánh Giác nhiều nhất,
tức là A La Hán. Người chứng quả A La Hán chẳng
tính nổi số. Phật giáo truyền đến hiện
thời, chiếu theo cách nói của người Hoa, đến
nay là ba ngàn lẻ ba mươi bảy năm. Ở Trung Quốc,
thành tựu thế nào? Hết sức khả quan! Trong Tông
Môn, quư vị có thể xem Ngũ Đăng Hội Nguyên và
Cảnh Đức Truyền Đăng Lục của Tông Môn
có ghi chép những vị thật sự chứng đắc
Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác trải các đời,
đó cũng là những vị được Thiền Tông
gọi là “minh tâm kiến tánh, kiến tánh thành Phật”. Phải
biết là có tới cỡ hai ngàn người, hoặc
hơn hai ngàn người. Người chứng đắc
Quyền Giáo Bồ Tát, chứng A La Hán đông đảo,
người văng sanh Tịnh Độ càng nhiều hơn,
quá ư là nhiều! Trong một trăm năm gần
đây, chẳng nghe nói có người khai ngộ, cũng chẳng
nghe nói có vị nào chứng Vô Thượng Chánh Đẳng
Chánh Giác. Người đắc Định th́ có, cũng
có nghĩa là có những vị là Tứ Quả La Hán hoặc
Quyền Giáo Bồ Tát th́ có, mỗi đời một ít
hơn. Trong thời đại hiện tiền, nói chung là
hoàn toàn chẳng có! Đừng nói là A La Hán, tôi thấy ngay
cả Tu Đà Hoàn cũng chẳng thể, làm thế nào
đây? Chỉ có Tịnh Độ, đới nghiệp
văng sanh. V́ vậy, một bộ kinh Vô Lượng Thọ,
một câu hồng danh sáu chữ này; trong thời Mạt
Pháp từ nay về sau hăy c̣n tám ngàn năm nữa, [kinh Vô
Lượng Thọ và danh hiệu A Di Đà Phật] sẽ
phổ độ hết thảy chúng sanh, vô lượng
công đức. Mục tiêu đều là một: Khai phát
Như Lai Tạng sẵn có nơi chúng sanh. Trong Tịnh Tông,
do nơi đây nghiệp chướng quá nặng, hoàn cảnh
không tốt, quư vị chẳng có cách nào thành tựu, nên giúp
quư vị di dân đến thế giới Cực Lạc,
đến thế giới Cực Lạc ḥng thân cận A
Di Đà Phật, thành tựu Vô Thượng Bồ Đề
trong hội Di Đà. V́ vậy, mục tiêu chung cực giống
nhau, điều ấy được gọi là “thiệu long Phật chủng”.
Thiệu long Phật chủng chẳng phải là [nối tiếp
hưng thịnh] gịng giống Phật của Thích Ca Mâu Ni
Phật, mà cũng chẳng phải là gịng giống Phật
của A Di Đà Phật, mà là gịng giống Phật của
chính ḿnh! Điều này quan trọng, đây là Tự Phật,
chẳng phải là Tha Phật. Tha Phật chẳng thể
giúp ta, chính ḿnh thành Phật mới được. Từ
chỗ này, quư vị liền hiểu: Phật giáo chẳng
phải là tôn giáo. Trong tôn giáo có thần, cá nhân chẳng thể
giống như thần, chẳng thể nào! [Trong tôn giáo] có
Thượng Đế, chẳng thể là ai cũng đều
làm Thượng Đế, Thượng Đế chỉ
có một, chân thần chỉ có một. Trong Phật giáo, chẳng
phải là như vậy! Trong Phật giáo, tất cả
chúng sanh, ai nấy đều là Phật. Hiện thời có
phải là Phật hay không? Là Phật! Chỉ v́ chính quư vị
chẳng thừa nhận, chính quư vị mê hoặc, điên
đảo, chẳng thừa nhận chính ḿnh là Phật. Thế
nhưng, Phật và Pháp Thân Bồ Tát thấy quư vị là
chân Phật, chẳng phải là giả Phật, v́ sao? Có Phật
Tánh.
2) Thứ
hai, “dĩ Bồ Đề tâm
vi Phật chủng” (coi Bồ Đề tâm là Phật chủng).
Trong điều thứ nhất trên đây, nói theo Lư, nói theo
Tánh, hết thảy chúng sanh đều là Phật. Điều
thứ hai nói theo Sự, quư vị chẳng phát Bồ Đề
tâm, sẽ chẳng thành Phật. V́ thế, coi Bồ Đề
tâm là Phật chủng. “Hoa Thủ
kinh viết: Thí như vô ngưu, tắc vô đề-hồ.
Nhược vô Bồ Tát phát tâm, tắc vô Phật chủng.
Nhược hữu ngưu, tắc hữu đề-hồ.
Như thị nhược hữu Bồ Tát phát tâm, tắc
Phật chủng bất đoạn” (Kinh Hoa Thủ nói:
“Ví như không có ḅ, sẽ chẳng có đề-hồ. Nếu
chẳng có Bồ Tát phát tâm, sẽ chẳng có Phật chủng.
Nếu có ḅ, sẽ có đề-hồ. Cũng giống
như vậy, nếu có Bồ Tát phát tâm, ắt Phật chủng
chẳng đoạn”). Ngài dùng tỷ dụ để nói.
Đề-hồ là ǵ? Kinh Phật thường nói đó là
một chế phẩm từ sữa, từ sữa tinh luyện
thành. Luyện đến mức cao nhất, tốt nhất
th́ người Ấn Độ gọi là đề-hồ.
Sữa, lạc, tô, luyện tới mức cao nhất là
đề-hồ, đó là những danh xưng từ ba ngàn
năm trước. Hiện thời rốt cuộc đó
là ǵ? Thuở trước, lăo pháp sư Đạo Nguyên, khi
tôi thọ giới, lăo nhân gia là Đắc Giới ḥa
thượng. Giới kỳ kéo dài một tháng mấy, chúng
tôi ở cùng một chỗ. Lăo ḥa thượng mỗi ngày
đều khai thị cho chúng tôi, kể chuyện xưa.
Ngài nói: Có lần theo một đoàn lữ hành sang Ấn
Độ chiêm bái thánh tích. Ngài là pháp sư giảng kinh, có
hai chuyện từ đầu đến đuôi Ngài chẳng
thể nói rơ ràng, một là Am Ma La quả, kinh Phật
thường nói tới, rốt cuộc Am Ma La quả là ǵ?
Nói chẳng rơ ràng, mà chú giải cũng chẳng chú thích rơ
ràng. Thứ khác là đề-hồ. Lần này có cơ hội
đến Ấn Độ, hỏi người Ấn
Độ, có quả Am Ma La hay không? Có. Lấy ra cho chúng tôi
xem, vừa nh́n, người Đài Loan gọi là Ba Lạc
(trái ổi)[1], mới biết Đài
Loan có thứ ấy. Đề-hồ th́ sao? Cũng lấy
đề-hồ ra, nay là sa lạp (salad), mới hoảng
nhiên đại ngộ. Xác thực là vào thời cổ những
thứ này ăn rất ngon.
Nói
theo tỷ dụ, nếu chẳng có ḅ, sẽ chẳng có đề-hồ,
quư vị lấy ǵ để tinh luyện? Giống như
Bồ Tát nếu chẳng phát tâm, sẽ chẳng có Phật
chủng. Có ḅ, bèn có đề-hồ, giống như nếu
có Bồ Tát phát tâm, ắt Phật chủng chẳng đoạn.
Bồ Đề tâm là ǵ? Cũng có rất nhiều cách nói. Chúng
tôi phải t́m một cách đơn giản nhất để
mọi người dễ hiểu, rất rơ ràng, ngơ hầu
chúng ta biết học tập như thế nào? Bồ Đề
tâm có Thể và Dụng, kinh dạy: Thể của Bồ
Đề tâm là chí thành tâm, chân thành đến mức cùng cực
là chí thành tâm. Chí thành tâm khởi tác dụng, đối với
chính ḿnh, cổ nhân nói là “háo thiện,
háo đức”, tức là thích điều thiện,
ưa chuộng đức, ưa thiện chuộng đức;
đối với người khác từ bi. Từ bi đối
với người khác chính là Tha Thọ Dụng. Tha Thọ
Dụng của tâm chân thành là đại từ đại
bi, Tự Thọ Dụng là ưa thiện, chuộng đức.
Tôi giảng
kinh đă nhiều năm như thế, kể từ khi thầy
giao cho tôi bản hội tập kinh Vô Lượng Thọ,
tôi rất ưa thích bộ kinh này, v́ tựa đề kinh
quá hay, trong tựa đề kinh, nhân quả trọn đủ.
Trong kinh Hoa Nghiêm, đức Phật nói: “Hết thảy chúng sanh đều có trí huệ và
đức tướng của Như Lai”, nửa phần
tựa đề kinh này là trí huệ và đức tướng
của Như Lai. Trí huệ của Như Lai là ǵ? Đại
Thừa. Đức là ǵ? Vô Lượng Thọ. Tướng
là ǵ? Trang Nghiêm. Quư vị thấy Đại Thừa Vô
Lượng Thọ Trang Nghiêm là quả, chính là như đức
Phật đă nói trong kinh Hoa Nghiêm: “Hết thảy chúng sanh đều có trí huệ và đức tướng
của Như Lai”. Nay chúng ta mê, v́ quư vị có vọng
tưởng, phân biệt, chấp trước, nên chúng (trí
huệ và đức tướng) không thể hiện tiền,
đă mê rồi. Nửa phần sau của tựa đề
kinh nói về sự tu nhân, chỉ cần quư vị tu “thanh tịnh b́nh đẳng giác”, Đại Thừa Vô Lượng
Thọ Trang Nghiêm liền hiện tiền. Quư vị thấy
có nhân, ắt có quả. Thanh tịnh, b́nh đẳng, giác là
Tự Thọ Dụng. Cổ nhân gọi Tự Thọ Dụng
của Bồ Đề tâm là “ưa
thiện, chuộng đức”. Quư vị thấy tựa
đề kinh này nói rất rơ ràng! Thiện là ǵ? Đức
là ǵ? Thanh tịnh, b́nh đẳng, giác là thiện, là đức.
Tâm chân thành đối với chính ḿnh là tâm thanh tịnh, tâm
b́nh đẳng, giác tâm. Đối với người khác
là từ bi, đại từ đại bi, chân thành từ
bi. Nói cách này, mọi người vừa nghe đều thấy
rất dễ hiểu, đều ở trong tựa đề
kinh. Quư vị biết thọ tŕ Đại Thừa Vô
Lượng Thọ Kinh là Bồ Tát phát tâm, là Phật chủng
chẳng dứt. Đó là cách nói thứ hai.
3)
Cách nói thứ ba: “Dĩ xưng
danh vi Phật chủng” (coi xưng danh là Phật chủng),
tức là niệm Phật. Có thể nói thông suốt hay
không? Có thể! Không chỉ nói thông suốt, mà c̣n nói hết
sức hay! V́ trong kinh giáo Đại Thừa, đức Phật
thường nói: “Hết thảy
các pháp sanh từ tâm tưởng”, trong tâm quư vị
tưởng Phật, trong tâm niệm Phật,
đương nhiên là lẽ nào Phật chủng chẳng
hiện tiền? Điều này rất hợp lư, nói theo tâm
thái, coi xưng danh là Phật chủng rất có căn cứ.
Kinh Bảo Vân có nói: “Thí như
chủng thụ, hữu kỳ chủng tử, ly ư hủ
bại, cụ túc sanh nha nhân duyên” (Ví như trồng cây,
có hạt giống của nó, chẳng bị hư nát, đầy
đủ nhân duyên nẩy mầm). Nẩy mầm do có hạt.
Giống như cây cối, trồng cây, [chẳng hạn
như trồng] cây đào, hạt đào là chủng tử.
Có chủng tử của nó, chủng tử chẳng hư
nát, quư vị gieo xuống, nó sẽ nẩy mầm, dần
dần mọc thành cây nhỏ. Ba năm sau, nó liền sanh
trái đào, mọc thành cây to. “Văn
Phật danh hiệu, như đắc chủng tử, tín
nguyện tŕ danh, tức thị cụ túc nhân duyên, tất
đắc thọ kư tác Phật, cố vân tŕ danh vi Phật
chủng” (Nghe danh hiệu Phật, như được
chủng tử. Tín nguyện tŕ danh tức là trọn đủ
nhân duyên, ắt được thọ kư làm Phật, nên nói “tŕ
danh là Phật chủng”). Tŕ danh là Phật chủng, hoàn toàn
chiếu theo cách nói của Tịnh Độ Tông.
Hoàng lăo cư
sĩ giải thích câu kinh này, đă lựa chọn những
kinh luận do các vị tổ sư đại đức từ
xưa đă trích dẫn, dần dần đều quy về
Tịnh Độ, lại c̣n quy vào Tŕ Danh Niệm Phật.
Từ chỗ này, có thể hiểu trí huệ, ḷng từ
bi, và phương tiện thiện xảo của lăo cư
sĩ, chúng ta hăy nên học tập, chẳng cô phụ tấm
ḷng cụ yêu thương chúng ta.
Nghe
danh hiệu Phật, chúng ta đạt được chủng
tử văng sanh thế giới Cực Lạc. Nếu nghe
xong hoài nghi, chẳng nghĩ đến thế giới Cực
Lạc, sẽ giống như chủng tử hư nát, tuy
có chủng tử, chẳng thể thành tựu. Nếu quư vị
có duyên tiếp xúc kinh điển này, pháp môn này, nghe danh hiệu,
có thiện hữu giới thiệu, giải thích, giảng
rơ với quư vị, giúp quư vị đoạn nghi sanh tín, quư
vị thật sự tiếp nhận, thật sự tin
tưởng, phát nguyện cầu sanh Tịnh Độ, thật
sự từ hôm nay trở đi, quư vị niệm A Di
Đà Phật, có thể buông xuống vạn duyên. Nay chúng
tôi khuyên dạy người khác, đều là một bộ
kinh Vô Lượng Thọ, một câu Di Đà, quư vị quyết
định có thể thành tựu trong một đời
này, suốt đời vĩnh viễn chẳng thay đổi.
Bất luận công việc bận rộn như thế
nào, đều niệm Phật chẳng gián đoạn. Hễ
cần dùng đầu óc, bèn buông niệm Phật xuống
để làm việc. Làm xong, Phật hiệu liền hiện
tiền, như thế cũng là liên tục chẳng dứt,
tịnh niệm tiếp nối. V́ thế, pháp môn này thật
sự thù thắng, bất luận làm loại việc ǵ
cũng đều chẳng có trở ngại, đều có
thể giúp quư vị thành tựu. Trong hết thảy các
pháp môn, pháp này thuận tiện khôn sánh. Đó là trọn
đủ nhân duyên. Giống như quư vị có hạt giống,
có đất, phân, nước, ánh sáng mặt trời, lại
c̣n có người chăm sóc kỹ lưỡng, nhất
định sẽ tăng trưởng vô cùng tốt đẹp.
Căn
cứ trên ư nghĩa của Hội Sớ, “dĩ Bồ Đề tâm dữ xưng Phật danh
hiệu vi Phật chủng tánh, túc chứng bổn kinh
dĩ phát Bồ Đề tâm, nhất hướng chuyên niệm
vi Tông, chánh thị hộ Phật chủng tánh thường
sử bất tuyệt dă” (lấy Bồ Đề tâm và
xưng danh hiệu Phật làm chủng tánh của Phật,
đủ chứng tỏ kinh này lấy “phát Bồ Đề
tâm, một mực chuyên niệm” làm Tông, chính là thường
bảo vệ chủng tánh của Phật khiến cho chẳng
đoạn tuyệt). Đây là nói trong kinh này, trong phẩm
Tam Bối Văng Sanh, chúng ta thấy bất luận thượng
bối, trung bối, hạ bối đều là dùng “phát Bồ Đề tâm, một
mực chuyên niệm”, lấy câu này làm Tông. Tông nghĩa
là ǵ? Cương lănh chỉ đạo chủ yếu, là
nguyên tắc tu học trọng yếu,
chẳng thể không phát Bồ Đề tâm. Nếu tôi nói
Bồ Đề tâm theo tựa đề kinh này, nhất
định phải phát tâm chân thành, tâm thanh tịnh, tâm b́nh
đẳng, tâm chánh giác, tâm từ bi. Chân thành là Thể,
đối với bất luận kẻ nào, đều phải
dùng chân tâm để đối xử. Họ lừa gạt
ta là chuyện của họ, ta phải dùng chân tâm đối
với họ. Có thể cảm hóa họ th́ tốt quá; chẳng
thể cảm hóa họ, vẫn dùng chân tâm! Phải biết:
Một đời này chẳng thể cảm hóa họ,
đời sau họ sẽ bị cảm hóa. Ta quyết
định chẳng v́ kẻ ấy hư t́nh giả ư, mà
ta cũng hư t́nh giả ư đối với kẻ
đó. [Nếu hư t́nh giả ư] là sai mất rồi, quư vị
đâu phải là người học pháp môn Tịnh Tông! Người
học pháp môn Tịnh Tông tuyệt đối chẳng nói lời
giả, mà dùng cái tâm chân thành để đối xử với
kẻ khác. Đối xử với chính ḿnh th́ sao? Đối
với chính ḿnh th́ phải thanh tịnh, quyết định
chớ nên nhuốm bẩn! Nhuốm bẩn là ǵ? Tự
tư tự lợi là nhuốm bẩn, tiếng tăm, lợi
dưỡng là nhuốm bẩn, ngũ dục, lục trần
là nhuốm bẩn, tham, sân, si, mạn là nhuốm bẩn. Tối
thiểu phải ĺa khỏi những thứ nhuốm bẩn
ấy, tâm ta sẽ thanh tịnh. Tâm b́nh đẳng chẳng
có cao thấp, đối đăi với bất luận kẻ
nào cũng đều nhất loạt b́nh đẳng. Ta
đối đăi với Phật và đối đăi với
hết thảy chúng sanh như một, không hai, cùng một
tâm là tâm b́nh đẳng. Ta đối với Phật cung
kính, đối với người khác thiếu lễ kính
th́ sự cung kính Phật là giả trất, chẳng thật!
Ta cung kính Phật, đối với muỗi, trùng, kiến
chẳng cung kính th́ sự cung kính đối với Phật
vẫn chẳng thật, vẫn là giả trất! Cho đến
đối với hoa, cỏ, cây cối, núi, sông, đại
địa, đều học theo Phổ Hiền Bồ Tát
lễ kính chư Phật, b́nh đẳng. Giác chẳng cần
cầu, thật sự đạt được thanh tịnh,
b́nh đẳng, sẽ tự nhiên giác ngộ. Phải biết
thanh tịnh do Giới mà có, b́nh đẳng đạt
được từ Định, Giác là khai trí huệ. Công
phu Thiền Định sâu, tất nhiên sẽ có một ngày
quư vị đại triệt đại ngộ, minh tâm kiến
tánh.
V́
thế, thanh tịnh, b́nh đẳng, giác là Tam Học Giới
Định Huệ, mà cũng là Tam Tạng. Thanh tịnh là Luật
Tạng, b́nh đẳng là Kinh Tạng, Chánh Giác là Huệ Tạng
(Luận Tạng), Giới, Định, Huệ
[tương ứng với] Tam Tạng là Kinh, Luật, Luận.
Nó cũng tương ứng với Tam Bảo, thanh tịnh
là Tăng Bảo, b́nh đẳng là Pháp Bảo, Chánh Giác là Phật
Bảo, Phật, Pháp, Tăng, đương nhiên đó là
chủng tánh của Phật. V́ thế, chúng ta biết kinh dạy
chúng ta phát Bồ Đề tâm, một mực chuyên niệm,
một phương hướng, một mục tiêu, suốt
một đời quyết định chẳng dao động.
Phải học theo Thiện Tài đồng tử tham học
năm mươi ba lần, tiếp xúc rất nhiều pháp
môn, hết sức cảm tạ [các vị thiện tri thức]
đă khiến cho tôi liễu giải, hiểu rơ. Đó là Huệ,
là Hậu Đắc Trí, không ǵ chẳng biết; nhưng
tâm quyết định là định, chẳng bị các
pháp môn ấy quấy nhiễu, tôi vẫn thật thà niệm
Phật, cầu sanh Tịnh Độ. Dẫu pháp môn thù thắng
đến mấy đi nữa, tôi muốn học th́ đến
thế giới Cực Lạc hăy học, hiện thời
chẳng học. Nhất tâm nhất ư cầu sanh Tịnh
Độ, đó là đúng.
“Thường sử bất tuyệt
giả, Gia Tường Sớ: Dục sử Như Lai pháp
chủng bất đoạn cố dă” (Gia Tường Sớ
giảng “thường sử bất tuyệt” là v́ muốn
cho pháp chủng của Như Lai chẳng dứt). Trong Phật
môn thường nói là chánh pháp tồn tại lâu dài (chánh pháp
cửu trụ), đó là trách nhiệm của mỗi kẻ
đệ tử Phật như chúng ta. Như thế nào th́
mới có thể khiến cho chánh pháp tồn tại lâu dài?
Nhất định phải thực hiện từ bản
thân ta, chẳng thể đ̣i hỏi kẻ khác. Chánh pháp tồn
tại lâu dài, chẳng phải là nói kinh điển hăy c̣n
trên thế gian. [Kinh điển tuy c̣n, mà] chẳng có ai tu
hành, chánh pháp liền diệt. Khuyên người khác tu hành,
người ta có bằng ḷng, có thể tiếp nhận hay
không? Chẳng đáng tin cậy! V́ thế, khuyên chính ḿnh y
giáo tu hành, khuyên chính ḿnh chứng A La Hán, chứng Bồ Tát,
thành Phật, đó là chánh pháp tồn tại lâu dài. Hăy thật
sự làm! Chính ḿnh làm, chẳng phải là bảo người
khác làm. Chính ḿnh thật sự làm, sẽ ảnh hưởng
người khác, ảnh hưởng những ai? Chúng sanh
căn cơ đă chín muồi! Chúng sanh thiện căn,
phước đức, nhân duyên đă chín muồi thấy
quư vị bèn rất hâm mộ, sẽ học theo quư vị,
vậy là quư vị dẫn thêm được một
người. Quư vị có thể độ rất nhiều
chúng sanh, nhưng chúng sanh căn cơ chín muồi ít ỏi,
tức là người thấy quư vị như vậy sẽ
thật sự làm giống như quư vị ít lắm,
nhưng người được gieo thiện căn sẽ
đông đảo. Họ trông thấy quư vị bèn tôn kính,
tán thán quư vị, thảy đều là gieo thiện căn!
“Tịnh
Ảnh Sớ viết: Hộ sử ly chướng, khởi
thiện vô gián, danh thường bất tuyệt” (Tịnh
Ảnh Sớ giảng: “Giữ ǵn khiến cho ĺa chướng,
dấy lên điều thiện chẳng gián đoạn, th́
gọi là thường bất tuyệt”). “Hộ” (護) th́ phải bảo
vệ chính ḿnh, bảo vệ những ǵ của chính ḿnh? Bảo
vệ thanh tịnh b́nh đẳng giác của chính ḿnh. Nói
cách khác, quư vị nhất định phải xa ĺa nhuốm
bẩn. Tôi vừa mới nói, phải xa ĺa tự tư tự
lợi, phải xa ĺa tiếng tăm, lợi dưỡng,
phải xa ĺa ngũ dục, lục trần, phải xa ĺa tham,
sân, si, mạn, đấy chính là nguyên do Thích Ca Mâu Ni Phật
dạy chúng ta tŕ giới, chịu khổ. Ngài dặn ḍ bọn
chúng ta là những người thuộc thế hệ sau hăy
nên lấy giới làm thầy, lấy khổ làm thầy, như
vậy th́ quư vị mới có thể ĺa chướng. Học
tập cũng phải biết giữ quy củ. Tổ
sư đại đức dạy chúng ta “thâm nhập một môn, huân tu lâu dài”. Đó là giới,
quư vị phải tuân thủ. Ba căn bản đă vun bồi
tốt đẹp, nếu đều làm được,
quư vị là thiện nam tử, thiện nữ nhân, quư vị
trọn đủ điều kiện học Phật. Cách
học như thế nào? Một bộ kinh, một pháp môn, đó
gọi là “thâm nhập một
môn, huân tu lâu dài”. V́ thế, tôi khuyên các đồng học
Tịnh Tông, một bộ kinh Vô Lượng Thọ, một
câu Phật hiệu cứ niệm măi. Nếu trong tâm vẫn
chưa ổn thỏa, c̣n có nghi hoặc, th́ hăy nghe giảng.
Nghe giảng kinh Vô Lượng Thọ, cứ lần lượt
nghe từng lần một, nghe không hiểu cũng chẳng
sao, lại nghe nữa, cứ nghe lần lượt từng
lần một. Cổ nhân nói rất hay: “Đọc sách ngàn lượt, tự thấy ư
nghĩa”, nếu quư vị thật sự nghe đĩa
giảng kinh Vô Lượng Thọ này từ đầu
đến đuôi một ngàn lượt, quư vị sẽ
khai ngộ. V́ sao? Một ngàn lần đă khiến tâm quư vị
định lại, Định sanh Huệ, Định có
thể khai ngộ, đạo lư là như thế đó. Trong
ấy, chẳng có ǵ là thần kỳ hay mê tín. Ĺa chướng,
khởi tâm động niệm chẳng có ǵ bất thiện,
quư vị khởi tâm động niệm đều tương
ứng với tâm thanh tịnh, đều tương ứng
với Thập Thiện Nghiệp Đạo, đó là “bất tuyệt”, là “thường sử bất tuyệt”.
“Hựu
Chân Giải viết: Đại Luận vân: Ư vô Phật
xứ, tán thán Tam Bảo âm” (Sách Chân Giải lại chép:
“Đại Luận viết: Ở nơi không có Phật,
khen ngợi danh từ Tam Bảo”). Đó là thường niệm
Phật, Pháp, Tăng. “Tức
thọ tŕ, tuyên thuyết Phật pháp tạng dă, chúng sanh do
chi thực thiện, phát trí, thành đức khế lư, cố
Tam Bảo chủng tử, truyền truyền tương kế,
thường sử bất tuyệt. Dĩ thượng tam
thuyết chánh hảo hợp tham” (tức là thọ tŕ,
tuyên nói pháp tạng của Phật. Chúng sanh do đấy
sẽ gieo căn lành, phát sanh trí, thành tựu những
phẩm đức khế Lư, nên hạt giống Tam Bảo
được liên tục lưu truyền, thường
chẳng bị dứt mất. Cả ba thuyết trên
đây đều có thể gộp lại để tham
khảo). Ba
loại trên đây đều có thể gộp lại ḥng
tham khảo. Kinh luận nói rất hay,
nơi chẳng có Phật giáo, bèn tán thán nền giáo dục
của đức Phật, giảng giải, nói rơ với
người khác, khiến cho chủng tử Tam Bảo
được gieo vào A Lại Da Thức của mọi người,
khiến cho họ có cơ duyên trông thấy tượng Phật,
nghe âm thanh Phật hiệu, vừa thoảng qua tai, vĩnh
viễn trở thành hạt giống đạo. Họ
đă có thiện căn ấy, trong tương lai sẽ khởi
tác dụng, đó là ǵ? Gieo chủng tử. Đối với
chúng sanh căn cơ đă chín muồi, bèn giúp họ thành Phật,
giúp kẻ căn cơ chưa chín muồi trở thành chín
muồi. Đối với kẻ chưa có chủng tử,
bèn gieo thiện căn cho họ, gieo chủng tử Phật
cho họ, thấy tượng Phật, nghe danh hiệu Phật,
đều gieo chủng tử vào A Lại Da. Hôm nay đă hết
thời gian rồi, chúng ta học tập tới chỗ
này.
Tập
136
“Hưng đại bi, tùng thử
cú trực chí chửng tế phụ hà, giai độ bỉ
ngạn thập cú, biểu chư đại sĩ đồng
thể đại bi, vô duyên đại từ chi đức
hạnh” (Cả mười
câu từ câu “hưng đại bi” cho đến câu “cứu vớt, gánh vác
cho họ đều vượt lên bờ kia” đều
nói về đức hạnh đồng thể đại
bi, vô duyên đại từ của các vị Đại Sĩ). Trước hết
là giới thiệu ư nghĩa trọng yếu trong khoa mục
nhỏ này. Tâm từ bi của các vị Bồ Tát, Pháp Thân
đại sĩ dự hội lưu lộ. Đồng thể
đại bi, vô duyên đại từ là nh́n Bồ Tát từ
góc độ của lũ phàm phu chúng ta. Nếu nh́n từ phía
bản thân các vị Bồ Tát, hai câu này chẳng có ư
nghĩa chi cả! V́ sao? Các Ngài xác thực là đă chứng
đắc “khắp pháp giới hư không giới và chính
ḿnh là một Thể”. Kinh Phật diễn tả điều
này là “phá một phẩm vô minh,
chứng một phần Pháp Thân”. Pháp là hết thảy vạn
pháp. Câu nói cuối cùng [trong năm câu do] Huệ Năng
đại sư [đă thốt ra khi] khai ngộ là: “Nào ngờ tự tánh, có thể
sanh ra vạn pháp”. Đó chính là “hết thảy các pháp
trong khắp pháp giới hư không giới và chính ḿnh đều
do cùng một thể tánh hiển hiện”. Sách Hoàn Nguyên Quán nói
tự tánh thanh tịnh viên minh thể, hiển nhất Thể,
khởi nhị Dụng, thị tam biến (phô bày ba thứ
trọn khắp). Lời văn tuy không dài, nhưng đă viết
rất rơ ràng, rất minh bạch. Đây là một chủ
đề đang được tất cả các khoa học
gia và triết gia trên thế giới điều tra, cho
đến nay, vẫn chưa thể đạt đến
kết luận dứt khoát, nhưng kinh đă nói rành mạch,
nói rơ ràng. Các Ngài chứng đắc như thế nào? Đức
Phật dạy: Chính quư vị vốn sẵn có trí huệ
và năng lực ấy. Chẳng phải là tưởng
tượng, chẳng phải là chúng ta nhất định
phải tưởng như vậy, hoặc nhất định
phải niệm như thế, chẳng phải vậy, nó
vốn sẵn là như vậy! Trong kinh Hoa Nghiêm, đức
Phật dạy chúng ta: V́ sao nay chúng ta và chư Phật
Như Lai sai khác to lớn như vậy? Vốn là một
Thể, thế mà có sai khác to lớn ngần ấy, đức
Phật cho biết: “Chỉ v́
vọng tưởng và chấp trước, nên không thể
chứng đắc”, một lời đă nói toạc ra!
Do vậy, chúng ta hiểu: Chỉ cần chúng ta buông vọng
tưởng, phân biệt, chấp trước xuống, quư
vị vốn sẵn là Phật, giác ngộ vạn sự vạn
vật trong vũ trụ và ta thật sự là một Thể.
Trong
kinh, đức Phật thường nói: “Ngoài tâm không có pháp, ngoài pháp chẳng có tâm”, tâm và
pháp là một, chẳng hai. Tâm là tự tánh, có thể hiện,
có thể sanh. Pháp là vạn pháp, là cái được sanh,
được hiện. Trong Phật pháp nói tới y báo và
chánh báo, chánh báo là chính ḿnh, ngoài chính ḿnh ra đều gọi
là y báo. V́ vậy, trong y báo có hoàn cảnh nhân sự, có hoàn cảnh
vật chất, c̣n có hoàn cảnh hiện tượng tự
nhiên, tức là bao quát toàn thể vũ trụ. Cổ nhân
nói hai câu: “Lớn mà chẳng ra
ngoài, bé mà chẳng ở trong”, nói lên ư nghĩa ǵ? Lớn
mà chẳng ra ngoài là chẳng có ngằn mé, lớn vô cùng.
Trong khoa học hiện đại, các nhà khoa học cho biết
phần vũ trụ nhân loại biết đến thật
ra chỉ là một phần mười, hăy c̣n chín phần
mười chúng ta không biết. Cũng có nhà khoa học nói:
Chín mươi phần trăm vũ trụ ta không thấy,
nay chúng ta dùng dụng cụ khoa học có thể thăm ḍ
mười phần trăm, v́ sao? Họ vẫn chẳng biết
do nguyên nhân nào! Thế nhưng trong kinh Phật đă có nói,
câu nào trong kinh Phật? Trở về tự tánh. Bồ Tát
tu hành đạt đến Đẳng Giác Bồ Tát, đó
là địa vị Bồ Tát cao nhất. Đẳng Giác Bồ
Tát nếu lên cao hơn một cấp, sẽ hồi quy tự
tánh, là Diệu Giác. Cũng có thể nói Ngài đă đoạn
sạch tập khí vô thỉ vô minh, hoàn toàn chẳng có; do vậy,
chẳng c̣n thấy cơi Thật Báo. Nay chúng ta kể như
đă hiểu rơ, cơi Thật Báo do đâu mà có? Cơi Thật Báo
do tập khí vô thỉ vô minh biến hiện; khi tập khí
đă đoạn, cơi ấy cũng chẳng tồn tại,
tức là do “phàm những ǵ có
h́nh tướng đều là hư vọng”, nên cơi Thật Báo cũng là
hư vọng. Mười pháp giới hư vọng th́
chúng ta dễ hiểu, nhưng cơi Thật Báo Nhất Chân
pháp giới cũng là hư vọng [th́ khó hiểu], thứ
ǵ là chân thật? Chân thật là Thường Tịch Quang, Thường
Tịch Quang th́ thứ ǵ cũng đều chẳng có, chẳng
có hiện tượng vật chất, mà hiện tượng
tinh thần cũng chẳng có!
Trong
kinh giáo Đại Thừa, đức Phật dạy: Tất
cả các hiện tượng vật chất và hiện
tượng tinh thần đều sanh từ A Lại Da, A
Lại Da [sanh khởi] ba tế tướng. Ba tế tướng
ấy được sanh khởi theo thứ tự,
nhưng chúng có tốc độ quá nhanh, nên chúng ta cũng
có thể nói là chúng phát sanh đồng thời. “Một niệm bất giác, bèn có
vô minh”, vô minh ở đây chính là A Lại Da. Đối
với Nghiệp Tướng của A Lại Da th́ Nghiệp
Tướng là do một niệm bất giác. Giác tâm bất
động, Huệ Năng đại sư đă nói: “Nào ngờ tự tánh, vốn chẳng
dao động”, đó là Thường
Tịch Quang, bất động. Đột nhiên có một niệm
ấy phát sanh, niệm ấy được gọi là vọng
niệm, vô minh ấy được gọi là vô thỉ (無始). Vô thỉ là chẳng
có khởi đầu, thật sự chẳng có khởi đầu.
Đức Phật bảo cho chúng ta biết hiện tượng
ấy thật sự là ǵ? Là vọng tưởng, vọng (妄) là chẳng thật,
nên tưởng ấy được gọi là vọng
tưởng. Nếu thật sự có niệm dấy lên, sẽ
chẳng gọi là vọng tưởng. V́ thế, phải
hiểu ư nghĩa của chữ Vọng do đức Phật
đă nói, nó chẳng thật, Tướng có, Thể không.
Chúng ta quan sát những sự thật trước mắt,
đều thừa nhận các hiện tượng vật chất
trước mắt chúng ta, ngỡ chúng là thật, nhưng
đức Phật dạy chúng là giả, chẳng thật,
“phàm những ǵ có h́nh tướng
đều là hư vọng”, chúng ta không hiểu. Hiện
thời, các nhà Lượng Tử Lực Học cho biết:
Vật chất chẳng thật. Họ dùng phương
pháp khoa học để thấy hiện tượng vật
chất là ǵ? Là ư niệm. Ư niệm chẳng phải là niệm
ư? Niệm tích lũy liên tục, sanh ra huyễn tướng.
V́ sao có các loại vật chất khác nhau? Do tần số
[dao động] khác nhau, chúng ta sẽ thấy các hiện tượng
khác nhau. Tần số chậm, quư vị sẽ thấy là
chất rắn, tần số mau hơn sẽ biến thành
chất lỏng. Như hoa, cỏ, cây cối, da dẻ, huyết
dịch trên thân chúng ta đều thuộc loại có tần
số mau hơn một chút. Mau hơn nữa sẽ biến
thành thể hơi, thành các thể hơi lưu động
trong không khí. Lại nhanh hơn nữa, sẽ biến thành
sóng điện, ánh sáng, hoặc sóng điện từ. V́ thế,
bất cứ vật chất ǵ cũng đều có thể
quy hồi hiện tượng dao động. Nó (hiện
tượng dao động) là hiện tượng nguyên thủy
nhất, trong ấy, quư vị chẳng thấy vật chất.
Như
vậy là các nhà Lượng Tử Lực Học thấy
t́nh h́nh ấy, đúng như từ ba ngàn năm trước,
trong cuộc đối thoại giữa Thích Ca Mâu Ni Phật
và Di Lặc Bồ Tát: Phàm phu chúng ta khởi lên một niệm,
“tâm hữu sở niệm”,
[nghĩa là] đức Phật hỏi ngài Di Lặc, phàm phu
khởi lên một niệm th́ trong ấy có mấy tế niệm?
Có mấy tướng? Có mấy thức? Di Lặc Bồ
Tát trả lời đức Thế Tôn, thật ra là nói với
chúng ta: “Trong một cái khảy
ngón tay, có ba mươi hai ức trăm ngàn niệm”. Ba
mươi hai ức nhân với một trăm ngàn, một
trăm ngàn là mười vạn, [sẽ thành] ba trăm hai
mươi triệu. Trong một cái khảy ngón tay, có ba
trăm hai mươi triệu [tế niệm]. Tôi tin là có
người động tác rất nhanh nhẹn, rất lẹ
làng, trong một giây có thể khảy tới năm lần.
Nếu nói một giây khảy năm lần, sẽ là trong một
giây có một ngàn sáu trăm triệu [tế niệm], tần
số dao dộng là một ngàn sáu trăm triệu lần,
một giây đấy nhé! Di Lặc Bồ Tát nói “niệm niệm thành h́nh”, “h́nh” là hiện tượng vật
chất. Thích Ca Mâu Ni Phật hỏi về tướng, tức
hiện tượng vật chất, tức Cảnh Giới
Tướng của A Lại Da. Mấy thức? “H́nh đều có thức”. Từ
câu nói này, chúng ta hiểu vật chất và tinh thần
vĩnh viễn chẳng tách rời. Ngay như các nhà khoa học
Lượng Tử hiện thời đă phát hiện tiểu
quang tử, tức lượng tử, c̣n nhỏ hơn hạt
cơ bản như đă nói trước kia, trong tiểu
quang tử có hiện tượng vật chất, và
cũng có hiện tượng tinh thần. Hiện tượng
tinh thần trong tự tánh là “thấy, nghe, hay, biết”, trong
A Lại Da liền biến thành Thọ, Tưởng, Hành,
Thức. Đối với Thọ, Tưởng, Hành, Thức,
bất luận là Thọ hay là Tưởng, trong ấy hoàn
toàn có thấy, nghe, hay, biết. Trong Thọ có thấy, nghe,
hay, biết, trong Tưởng có thấy, nghe, hay, biết.
Trong Hành và Thức đều có thấy, nghe, hay, biết.
Đó là Chân Ngă. Ngay cả một hạt tiểu quang tử
cực nhỏ vẫn có thấy, nghe, hay, biết, lại
c̣n biến thành Thọ, Tưởng, Hành, Thức, nên nó có
thể thấy, có thể nghe, hiểu ư nghĩ của con
người. Chúng ta khởi tâm động niệm, nó biết
toàn bộ. Chúng ta hăy suy nghĩ, cái tạo thành thân thể của
chúng ta, tức là thân chánh báo, trong ấy có bao nhiêu tiểu
quang tử? Chẳng có cách nào tính toán thân thể này của chúng
ta có bao nhiêu tiểu quang tử! Trong mỗi hạt tiểu
quang tử đều có Thọ, Tưởng, Hành, Thức.
Trong Tứ Uẩn là Thọ, Tưởng, Hành, Thức, mỗi
Uẩn đều có thấy, nghe, hay, biết, do đâu mà
có hiện tượng này? Pháp nhĩ như thị,
[nghĩa là] nó vốn là như vậy, tự tánh là như vậy.
Tự tánh xác thực là lớn mà chẳng ở ngoài, nhỏ
chẳng ở trong, là một vấn đề triết học.
Đẳng
Giác Bồ Tát chứng Diệu Giác, trở về Thường
Tịch Quang, sẽ không thấy [có cơi Thường Tịch
Quang]. V́ sao khoa học gia nói có những phần vũ trụ
ta chẳng thể thấy được? Chúng đă trở
về Thường Tịch Quang, nên quư vị t́m chẳng
thấy. Chúng chẳng phải là hiện tượng vật
chất, mà cũng chẳng phải là hiện tượng
tinh thần, nên sáu căn chẳng thể tiếp xúc. Do mắt,
tai, mũi, lưỡi, thân, quư vị có thể cảm nhận
hiện tượng vật chất, ư căn cảm nhận
hiện tượng tinh thần, nhưng Thường Tịch
Quang chẳng phải là vật chất, chẳng phải là
tinh thần, nên quư vị chẳng có cách nào cảm nhận!
Nhưng nó tồn tại, bất sanh bất diệt, ở
nơi đâu? Không lúc nào chẳng tồn tại, không
nơi nào chẳng tồn tại, nhưng lục căn chẳng
thể tiếp xúc. Khi nào có thể tiếp xúc? Đức
Phật dạy: Buông vọng tưởng, phân biệt, chấp
trước xuống, quư vị liền hiểu rơ, liền
chứng đắc. V́ thế, phải biết: Căn bệnh
nặng nề của chúng ta là vọng tưởng, phân biệt,
chấp trước. Chưa thể buông vọng tưởng,
phân biệt, chấp trước xuống; nói thật thà,
quư vị chưa nhập Phật môn, vẫn là kẻ đứng
ngoài cửa nhà Phật, chưa thể gọi là Phật
giáo, gọi là Phật học như người hiện thời
nói th́ được, chẳng phải là học Phật. Người
thật sự học Phật, tối thiểu là phải
biết buông xuống, buông xuống từ chỗ nào? Nói thật
thà sẽ là buông xuống từ chính ḿnh, luôn phải bắt
đầu từ chính ḿnh. Buông ǵ xuống? Buông cái Ngă xuống,
biết đó chẳng phải là Ngă. Kinh Kim Cang nói “vô ngă tướng, vô nhân tướng,
vô chúng sanh tướng, vô thọ giả tướng”, bắt đầu từ
đó, phá Tứ Tướng th́ gọi là học Phật. Phá
Tứ Tướng là tầng cấp ǵ? Sơ Quả Tu
Đà Hoàn trong Tiểu Thừa, c̣n xét theo Đại Thừa,
theo kinh Hoa Nghiêm, sẽ là Sơ Tín Vị Bồ Tát trong Thập
Tín. Thập Tín là Tiểu Học, [Sơ Tín] là lớp Một
Tiểu Học, quư vị nhập Phật môn. Hăy c̣n có ta, có
người, có chúng sanh, có thọ giả, quư vị là lục
đạo phàm phu. Quư vị nói chính ḿnh là đệ tử
Phật, được thôi! Danh tự đệ tử, hữu
danh vô thực! Đối với Lục Tức như Thiên
Thai đại sư đă nói, quư vị thuộc Danh Tự
Tức. Buông Ngă xuống, Thân Kiến trong năm thứ Kiến
Hoặc bị phá. Biên Kiến đă phá, chẳng c̣n đối
lập do Biên Kiến. Ta chẳng có, kẻ khác cũng chẳng
có, phá Tứ Tướng, chúng sanh tướng cũng phá.
Thọ giả là thời gian, chúng ta có thể nói chúng sanh là
không gian. Cảnh giới này là thật sự nhập Phật
môn.
Người
như vậy niệm Phật văng sanh, sanh về Tây
Phương Cực Lạc thế giới thuộc tầng
cấp nào? Thưa cùng chư vị, người ấy sanh
trong cơi Phương Tiện Hữu Dư, chẳng sanh trong
cơi Phàm Thánh Đồng Cư. Do vậy, tu hành khó khăn,
trong một đời có thể tu đến mức độ
này, chẳng dễ dàng! Tu đến mức độ này,
quư vị liền siêu phàm nhập thánh, chẳng c̣n thuộc
cơi Phàm Thánh Đồng Cư. Điều này cho thấy tám
vạn bốn ngàn pháp môn, bất luận tu pháp môn nào đều
phải đi theo con đường này! Con đường
này, bao người đă học Phật suốt một
đời, có mấy ai thành tựu? Chúng ta nghĩ đến
chỗ này, chẳng thể không cảm ơn, chẳng thể
không cảm kích A Di Đà Phật đă từ bi mở ra
pháp môn đặc biệt, tiếp dẫn chúng ta là những
kẻ chẳng có năng lực phá Kiến Hoặc, cũng
có thể sanh vào cơi Phàm Thánh Đồng Cư trong Tây Phương
Cực Lạc thế giới. Cũng có nghĩa là người
trong cơi Phàm Thánh Đồng Cư chưa phá Tứ Tướng,
phải đới nghiệp văng sanh. Càng khó có hơn nữa,
tuy đới nghiệp, nhưng sanh về Tây Phương
Cực Lạc thế giới sẽ giống như cơi Thật
Báo, tuyệt diệu thay! V́ sao? Nguyện thứ hai mươi
trong bốn mươi tám nguyện có nói: “Sanh về thế giới Cực Lạc đều
là A Duy Việt Trí Bồ Tát”. A Duy Việt Trí là đẳng
cấp nào? Theo kinh Hoa Nghiêm th́ là từ Viên Giáo Sơ Trụ
trở lên. Những người ấy văng sanh Tây
Phương Cực Lạc thế giới, sẽ sanh trong
cơi Thật Báo Trang Nghiêm. Nay chúng ta một phẩm phiền
năo chưa phá, chỉ cần thật sự giữ vững
tín tâm kiên định, chẳng hoài nghi tí nào, một
phương hướng, một mục tiêu, “phát Bồ Đề tâm, một
mực chuyên niệm A Di Đà Phật”, quyết định
cầu sanh Tịnh Độ, sanh trong cơi Phàm Thánh Đồng
Cư. Dẫu hạ hạ phẩm văng sanh trong cơi Phàm Thánh
Đồng Cư, do được bổn nguyện và oai
thần của A Di Đà Phật gia tŕ, quư vị đến
thế giới Cực Lạc, trí huệ, thần thông,
đạo lực và hết thảy sự thọ dụng
đều bằng với hàng Bồ Tát trong cơi Thật Báo.
Phải ghi nhớ: Các pháp môn khác trong tám vạn bốn ngàn pháp
môn, chẳng có chuyện này. Chỉ riêng một cơi Tịnh
Độ là Di Đà Tịnh Độ [là có chuyện này], trong
Di Lặc Tịnh Độ chẳng có! Gặp gỡ pháp
môn này chẳng dễ dàng, đă gặp gỡ pháp môn này mà bỏ
lỡ th́ quá đáng tiếc. Chúng ta chẳng có cách nào buông vọng
tưởng, phân biệt, chấp trước xuống, chỉ
có con đường này. Trừ con đường này ra,
chẳng có con đường thứ hai, há chúng ta c̣n nên chẳng
quư trọng ư? C̣n có thể chẳng thật sự hành
theo ư? Từ vô lượng kiếp tới nay, phải
luân hồi trong sanh tử, chẳng thoát ra được!
Đời này gặp
được duyên phận này, quư vị có cơ hội
vĩnh viễn thoát ly luân hồi trong một đời
này, vĩnh viễn thoát ly mười pháp giới, cơ hội
này khó thể gặp gỡ ngần ấy, đúng như
bài kệ Khai Kinh đă nói: “Bách
thiên vạn kiếp nan tao ngộ”, vậy mà chúng ta
đă gặp. Cư sĩ Bành Tế Thanh nói: “Một ngày hiếm có, khó gặp
từ vô lượng kiếp đến nay”. Chúng ta
đă gặp gỡ. Lại c̣n gặp gỡ trong xă hội
hiện tiền, trên địa cầu có lắm tai nạn
xảy ra liên tiếp như thế, ngay trong lúc này mà
được gặp gỡ, chúng ta cảm thấy an ủi
to lớn không ǵ bằng! Gặp gỡ trong lúc này, khi nào tai
nạn sẽ phát sanh? Chẳng có điềm dự báo. Nói
cách khác, chúng ta ở bất cứ nơi nào trên quả
địa cầu này đều cảm thấy chẳng an
toàn, gặp được pháp môn này, tâm bèn định, tâm
đă an rồi, v́ sao? Thời gian đến thế giới
Cực Lạc đă tới rồi! Khá nhiều vị Bồ
Tát trong mười phương mơ tưởng chuyện
này, nhưng các Ngài chẳng có duyên gặp gỡ! Chúng ta có
thể lư giải: Nếu các Ngài gặp được, sẽ
chẳng hoài nghi mảy may, lập tức nắm lấy.
Đối với những người niệm Phật cầu
sanh Tịnh Độ chúng ta mà nói, những tai biến trên
địa cầu là chuyện tốt, chẳng phải là
chuyện xấu, chúng khiến cho chúng ta cảnh giác cao
độ, niệm niệm hướng về mục tiêu “một mực chuyên niệm”,
nhắc nhở chúng ta niệm niệm chẳng ĺa A Di
Đà Phật. Hiện thời chẳng ĺa, dùng tâm thanh tịnh,
tâm b́nh đẳng, tâm chánh giác để niệm Phật,
toàn bộ những thứ táp nham trong thế gian này đều
buông xuống, c̣n có ǵ chẳng buông xuống được?
Người như vậy quyết định sanh về Tịnh
Độ.
Bồ Tát “hưng đại bi, mẫn hữu
t́nh” (dấy ḷng đại bi, thương xót hữu
t́nh), đúng là đồng thể đại bi, vô duyên đại
từ, “vô duyên” là chẳng
có điều kiện. Sau khi minh tâm kiến tánh, đức
hạnh tự nhiên lưu lộ. Hai câu này được
giải thích: “Hưng đại
bi, mẫn hữu t́nh giả, Mẫn giả, ai niệm dă.
Bồ Tát bi mẫn chúng sanh, phổ linh xuất khổ”
(“dấy ḷng đại bi, thương xót hữu t́nh”: “Mẫn” là thương xót nghĩ
đến. Bồ Tát thương xót chúng sanh, làm cho tất
cả đều được thoát khổ). “Phổ” (普) là phổ biến, chẳng có phân biệt.
Đối đăi b́nh đẳng với hết thảy
chúng sanh, giúp chúng ta thoát ly luân hồi; luân hồi là biển
khổ. Tứ thánh pháp giới chịu khổ nhẹ hơn
lục đạo, nhưng chẳng đạt đến
chân lạc. Ḷng Bi ấy “phi Nhị
Thừa phàm phu ái kiến chi bi” (chẳng phải ḷng Bi
do ái kiến của Nhị Thừa và phàm phu). V́ thế,
trước đó thêm vào một chữ, thành Đại Bi.
Dấy lên ḷng đại bi, thương xót hữu t́nh.
Đại bi là chẳng có điều kiện, chẳng có t́nh
chấp ái kiến, chẳng có thứ ấy, tâm Ngài thanh tịnh,
b́nh đẳng, giác chứ không mê. “Hựu Hội Sớ viết” (Sách Hội Sớ
lại nói), hăy xem cổ đức giải thích, “bạt khổ vi bi” (dẹp
khổ là bi), nghĩa là thấy chúng sanh đau khổ, bèn
giúp họ ĺa khỏi thống khổ. Sanh, lăo, bệnh, tử
là khổ, chỉ có Phật, Bồ Tát là có thể cứu.
Trong thế gian, cầu chẳng được [thỏa ư]
sẽ là khổ, yêu thương phải chia ĺa là khổ, oán
ghét mà cứ phải gặp gỡ là khổ. Trong kinh giáo có
dạy chúng ta đạo lư và phương pháp ĺa khổ
như thế nào, đó là trong Phật môn. Trong các tôn giáo
khác, trong thế gian hiện thời, rất phổ biến
chuyện [ma quỷ] dựa vào thân, đó gọi là “chúng sanh có duyên bèn dựa vào thân”.
Chúng sanh có duyên chính là ǵ? Đều là những kẻ đến
đ̣i mạng hoặc đ̣i nợ, hiện tượng
này khắp nơi đều trông thấy. Đối với
vấn đề này, dùng Phật pháp để hóa giải
hoặc điều giải rất hữu hiệu. Khá nhiều
bệnh tật đều do oán thân trái chủ giáng họa,
họ đến báo thù. Trong quá khứ, quư vị đă nợ
mạng họ, nên họ đến đ̣i mạng. Quư vị
thiếu nợ nên họ đến đ̣i nợ. Chỉ cần
tâm địa chúng ta lắng trong, phiền năo ít, vọng niệm
ít, quư vị sẽ có thể nh́n ra được. Có
người hỏi tôi: “V́ sao hiện thời có nhiều
trường hợp [quỷ dựa thân] như vậy?”
Người ấy hỏi rất hay. Nếu người ấy
chẳng hỏi, chúng tôi chẳng nghĩ đến chuyện
này; vừa hỏi, tôi liền hiểu. Xă hội thuở trước
có giáo dục luân lư và đạo đức, có giáo dục
nhân quả, nên con người có chánh khí, những oán thân
trái chủ chẳng dám đến gần quư vị, v́ quư vị
có chánh khí. Nếu quư vị tạo nhiều ác nghiệp, sẽ
chẳng có chánh khí. Khi chánh khí chẳng có, tà niệm sẽ
xuất hiện. Đó là bất thiện khí, họ cũng
rất dễ tới gần, ngự trên thân quư vị.
Người học
Phật tŕ giới, niệm Phật, tu Định, có thần
hộ pháp thủ hộ, họ chẳng dám thân cận quư vị.
Quư vị xem câu chuyện trong Từ Bi Tam Muội Thủy
Sám, chẳng phải là rất rơ rệt ư? Ngộ Đạt
quốc sư là cao tăng mười đời. Quư vị
thấy oan gia của Ngài, thâm cừu đại hận chẳng
thể báo, đời đời kiếp kiếp chờ đợi,
đợi cho tới đời thứ mười, Sư
làm thầy của hoàng thượng, tức quốc sư.
Hoàng thượng tặng Sư một chiếc ghế Thái
Sư. Chiếc ghế ấy chạm trổ bằng trầm
hương, trầm hương đắt lắm, bán ở
tiệm thuốc là từng lượng một. Sư tiếp
nhận, vua là đệ tử của Sư, cúng dường
Sư bảo tọa trầm hương ấy, Sư sanh
khởi tâm ngạo mạn, cảm thấy [chính ḿnh] rất
vinh diệu: “Người xuất gia trong thiên hạ
đông ngần ấy, chẳng có ai sánh bằng ta!” Vừa
dấy lên niệm ấy, thần hộ pháp bỏ đi,
oán thân trái chủ t́m tới bên thân, Sư bị ghẻ h́nh
mặt người, gần như mất mạng! Tôn giả
Ca Nặc Ca điều đ́nh, oán thân trái chủ chấp
thuận, ĺa khỏi. Đó là một thí dụ sống động,
chúng ta phải ghi nhớ: Nếu trong tâm chúng ta c̣n có tà niệm,
c̣n có tà tư, quư vị biết là oán thân trái chủ dễ
t́m tới bên thân. Chúng t́m tới bên thân như vậy, quư vị
sẽ mắc bệnh khổ. Điều giải cùng oán thân trái chủ như thế
nào? Nói thật ra, trong thế gian này, mỗi người có
cả một đống lớn oán thân trái chủ! Bất
luận là trong quá khứ hay trong kiếp này, quư vị cố
ư giết, hay vô t́nh giết chết, họ đều chẳng
bỏ qua cho quư vị! C̣n có những kẻ b́nh phàm chẳng
hiểu chân tướng nhân quả, trong gia đ́nh ăn thịt
đă thành thói quen. Mỗi ngày quư vị ăn chúng nó, mà chẳng
có cảm giác! Thế nhưng những chúng sanh bị ăn
thịt ấy chẳng cam ḷng, chẳng t́nh nguyện để
cho quư vị ăn. Trong kinh Phật có nói: “Ăn kẻ khác nửa cân, đền hắn tám lạng”,
hắn sẽ đến đ̣i nợ quư vị. Chúng ta học
Phật, hiểu đạo lư này, không c̣n dám ăn thịt
chúng sanh nữa! Đó là chuyện tốt. Nhưng có những
kẻ ta đă kết oán [trong đời quá khứ hay trong
hiện tại], để hóa giải những oán thân trái
chủ ấy, mỗi ngày chính ḿnh làm các công đức hồi
hướng cho họ, ḿnh và người đều
được lợi, hy vọng họ sẽ chẳng quấy
nhiễu chúng ta tu hành. Chúng ta tu hành thành công, nhất định
độ họ trước hết. Nếu nguyện tâm ấy,
điều kiện ấy là chân thật, họ sẽ tiếp
nhận. Nếu quư vị giả dối, lừa gạt họ,
họ sẽ lại bám lên thân quư vị, kiếm quư vị
gây khó dễ. Chuyện này chẳng phải là mê tín, chuyện
quỷ thần này là sự thật.
Chúng tôi đọc
một câu chuyện có tựa đề là Khải Tát Quân
Đoàn Đông Chinh Trung Quốc Chi Mê (bí ẩn về
đoàn quân đông chinh đánh Trung Quốc của Caesar),
chuyện này là [chuyện quỷ thần]
dựa thân. Chuyện này [xảy ra] từ hơn hai ngàn một
trăm năm trước. Đại đế Khải
Tát (Gaius
Julius Caesar) của đế quốc La Mă phái một
đoàn quân hơn mười vạn người, thống
soái của quân đoàn là con trai thứ ba của nhà vua, đến
xâm lược Trung Quốc, mong cưỡng chiếm Trung
Quốc. Nơi ấy rất xa, từ La Mă đến Tân
Cương[2] mất một
năm hai tháng, đều là kỵ binh và bộ binh. Trên
đường đi, do không hợp thủy thổ, binh
sĩ chết rất nhiều. V́ thế, đến Trung Quốc,
từ Tân Cương đi đến hành lang Hà Tây[3],
tiếp xúc với người Hoa tại Tân Cương,
đánh nhau một trận. Cuộc chiến ấy hết
sức dữ dội, lần đại chiến ấy họ
tổn thất chín ngàn người, đă chết mất
chín ngàn quân, niềm tin chinh phục Trung Quốc bị chôn
vùi! Khi đến được hành lang Hà Tây, chỉ c̣n
sót lại mấy ngàn người, một vạn người
chẳng đến nơi, cuối cùng toàn quân bị tiêu diệt
ở Trung Quốc. Quư vị thấy các quỷ thần từ
hơn hai ngàn một trăm năm ấy, các con quỷ ấy,
tức quân đoàn ấy đến nay vẫn c̣n rất
tích cực, họ dựa vào thân của hai mẹ con nơi
vùng ấy. Tam vương tử thống soái dựa thân
người đàn bà, c̣n quân sư của ông ta dựa vào
thân con gái bà ta. Thời gian dựa thân khá lâu, suốt hai
mươi bảy năm. V́ thế, bọn họ giống
như bị bệnh thần kinh, điên điên khùng khùng
nói năng lung tung, kể ra chuyện xưa. Người viết
cuốn sách ấy là một khoa trưởng thuộc Thống
Chiến Bộ[4] của
chính phủ tại vùng ấy. Ông ta nghe chuyện này hiếu
kỳ, chẳng tin tưởng. Sau nhiều lần tiếp
xúc, ông ta bèn tin tưởng, là thật, quyết định
chẳng giả. Chuyện này nói lên điều ǵ? Cho thấy
con người chết đi th́ thân thể chết, chứ
linh hồn chẳng chết, vẫn đang chịu khổ,
chịu nạn. Những linh quỷ ấy chẳng có tín
ngưỡng tôn giáo, vào thuở hơn hai ngàn một trăm
năm trước, vẫn chưa có Cơ Đốc Giáo. Tại
Trung Quốc, họ gặp một vị Bồ Tát, tức
Lợi Tân Bồ Tát[5],
thấy bọn họ đáng thương, là một lũ
oan hồn vất vưởng, nên thường bố thí thức
ăn cho họ, bảo họ: “Trung Quốc chẳng phải
là đất của quư vị, quư vị đến làm ǵ?”
Câu nói ấy rất quan trọng, chúng ta là người biết
nghe, sẽ ngay lập tức giác ngộ. [Câu ấy] nói rơ
gây chiến tranh đoạt được đất
đai đều là do trong mạng quư vị có; nếu mạng
quư vị chẳng có, sẽ đoạt chẳng được,
chẳng phải là của quư vị mà!
V́
thế, đối với môn học vấn nhân quả, chớ
nên không biết chân tướng sự thật này. Con
người phải hiểu vận mạng là có nhất
định, trong mạng đă có, chắc chắn sẽ
đưa đến. Trong mạng chẳng có, chớ nên
cưỡng cầu, ḷng người bèn định, chẳng
tạo nghiệp. Trong mạng đă có, chẳng dùng đến
thủ đoạn mà vẫn đạt được.
Người Hoa hiểu đạo lư này, thời cổ, giáo
dục luân lư, đạo đức, nhân quả hết sức
phổ cập tại Trung Quốc. Có thể nói là trên từ
đế vương, công hầu, dưới đến kẻ
bán hàng thuê, gă chạy việc vặt, chẳng có ai không hiểu……
Chúng tôi liên tưởng người Nhật Bản phát
động chiến tranh xâm lược Trung Quốc, mong
chiếm lănh Trung Quốc, đúng như Lợi Tân Bồ Tát
đă nói: “Trung Quốc chẳng phải là của quư vị”.
Đánh nhau tám năm, cuối cùng đầu hàng vô điều
kiện, trao trả toàn bộ lănh thổ đă chiếm, chẳng
phải là của bọn họ mà! Oan uổng quá! Nay tôi thấy
một tin tức, vừa mới thấy [từ một tờ
báo đặt] trên bàn, nước Mỹ rút quân khỏi Y Lạp
Khắc (
“Hội
Sớ viết: Bạt khổ vi bi” (Sách Hội Sớ giảng:
“Dẹp khổ là bi”), giúp họ ĺa khổ, “năi chí bi thị chân thật b́nh đẳng chi bi, cố
vị đại bi” (cho đến bi là b́nh đẳng
chân thật, nên nói là “đại bi”). Quư vị thấy
đó, b́nh đẳng chân thật. B́nh đẳng là chẳng
có phân biệt liền b́nh đẳng, từ trong tâm chân
thành lưu lộ. “Hựu Niết
Bàn Kinh thập nhất viết”, [nghĩa là] quyển thứ
mười một của kinh Niết Bàn có chép: “Tam thế chư Thế Tôn,
đại bi vi căn bổn. Mật Bộ Đại Nhật
Kinh nhất viết: ‘Bồ Đề tâm vi nhân, đại
bi vi căn bổn’. Cố chư đại sĩ hàm phát
đồng thể đại bi chi tâm” (Các đức Thế
Tôn trong ba đời, [đều lấy] đại bi làm
căn bản. Trong Mật Bộ, kinh Đại Nhật,
quyển một, có nói: “Tâm Bồ Đề làm nhân, đại
bi làm căn bản”. V́ thế, các vị đại sĩ đều
cùng phát tâm đồng thể đại bi). Con người
hiện tại chẳng dễ độ. Nếu quư vị
đối đăi với họ bằng thiện tâm, chân tâm,
ngay lập tức họ sẽ hoài nghi quư vị có mưu
đồ ǵ đó! Quư vị có dụng tâm ǵ? Lập tức
đề pḥng. Quư vị có thể trách họ được
chăng? Chẳng thể! V́ sao? Hết thảy chúng sanh
trong toàn thể xă hội hiện thời đều
đánh mất tín tâm! Không chỉ chẳng tin tưởng,
hoài nghi kẻ khác, mà đối với chính ḿnh cũng chẳng
tin tưởng! Chúng sanh khó độ lắm! Hiện thời,
Bồ Tát phát tâm trước hết là độ chính ḿnh, chính
ḿnh đă được độ th́ quư vị mới có
thể quán cơ (xem xét căn cơ), mới có phương
tiện thiện xảo, đối với hết thảy
chúng sanh chẳng có mưu đồ, chẳng có mục
đích. Nếu quư vị hỏi v́ sao ư? Cũng không nhất
thiết phải nói với họ, họ đâu có hiểu!
Quư vị nói quư vị đồng thể với họ, về
căn bản là họ không tin: “Ngươi ăn nói nhảm
nhí, ai đồng thể với ngươi?” Không thể
tiếp nhận, khó khăn lắm!
Đồng
thể phải nói với ai? Nói với người khai ngộ,
họ sẽ hiểu. Nói chuyện đồng thể với
lục đạo chúng sanh, làm sao họ có thể tiếp
nhận? Không chỉ nhân gian khó khăn, ngay cả cơi trời
cũng chẳng dễ dàng, v́ sao? Thiên chúng măi cho đến
tầng trời thứ hai mươi tám đều chưa
phá Thân Kiến. Biên Kiến, Giới Thủ Kiến, Kiến
Thủ Kiến thảy đều c̣n nguyên, há dễ dàng
ư? V́ thế, Bồ Tát thị hiện trong lục đạo,
gặp người bèn nói bằng tiếng người, gặp
quỷ bèn nói bằng tiếng quỷ, chẳng có h́nh thức
nhất định, mà cũng chẳng có phương pháp
giáo học nhất định. Đúng là tùy cơ ứng
biến, vô cùng linh hoạt, chúng ta hăy nên học những
điều này. Chúng ta phải phát tâm, phải phát Bồ
Đề tâm, những chuyện này đều thuộc
trong Bồ Đề tâm. Do đó, Bồ Đề tâm là
nhân. Tâm đại bi trong tâm Bồ Đề là động
lực căn bản để độ chúng sanh. Chẳng
có tâm đặc biệt, sẽ chẳng có động lực
ấy, chẳng mong làm. V́ có tâm đại bi, nên dẫu
chúng sanh hoài nghi quư vị, thử thách quư vị lắm nỗi,
quư vị vẫn chẳng buông bỏ, vẫn hết sức
nghiêm túc nỗ lực thực hiện. Đó là ǵ? Đó là do
ḷng đại từ bi thúc đẩy. Kẻ chẳng học
Phật, chẳng thâm nhập Phật pháp sẽ chẳng biết,
họ sẽ nghĩ người như vậy (người
có ḷng đại từ bi) rất ngốc nghếch, chẳng
biết v́ chính ḿnh, chỉ biết v́ chúng sanh, người
như vậy quá đần độn! Khéo sao tổ tiên có
một câu nói: “Kẻ ngốc
hưởng phước của kẻ ngốc”, khá lắm,
vẫn c̣n thật sự tu phước báo.
“Diễn
từ biện, tùng từ tâm khởi thuyết dă. Tịnh Ảnh
Sớ viết: Y từ khởi thuyết, danh diễn từ
biện” (“Diễn
từ biện”: Do từ tâm mà
thốt lên. Tịnh Ảnh Sớ giảng: “Nương
ḷng Từ mà nói ra th́ gọi là diễn từ biện”). “Diễn” (演) là biểu diễn, giáo dục con người bằng
hành động gương mẫu, [chính ḿnh] làm được.
“Biện” (辯) là ngôn giáo. Chúng
ta thường nói là “thân hành,
ngôn giáo”. Diễn là ǵ? Biện là ǵ? Nói theo cách hiện thời
là một tấm ḷng yêu thương (ái tâm). Nhà Phật nói từ
bi, kẻ b́nh phàm chúng ta nói là “tâm yêu thương”. Ái tâm và từ
bi có cùng một ư nghĩa, nhưng trong đó có chút bất
đồng. Trong ái tâm có t́nh, chẳng có trí; trong từ bi có
trí, chẳng có t́nh, khác nhau ở chỗ này. V́ thế, từ
bi đúng là chân ái. Ái như người thế gian đă
nói chính là hư t́nh giả ư, chẳng thật, đó là giả
ái. Quư vị thấy trong xă hội hiện tại, nam nữ
kết hợp, kết hôn, đó là ái. Họ chẳng yêu nhau,
làm sao kết hôn cho được? Kết hôn chưa
được vài ngày lại ly hôn, [nên t́nh yêu thương]
đó là giả, chẳng thật. V́ thế, người thế
gian nói “tôi yêu em”, ngàn muôn phần đừng bị mắc
lừa, giả trất, chẳng thật. Được
vài ngày liền trở mặt! Chỉ có ḷng yêu thương
của Phật, Bồ Tát là thật, vĩnh hằng,
vĩnh viễn chẳng biến đổi, nên gọi là từ
bi. Quư vị thấy Thích Ca Mâu Ni Phật thuở tại thế,
đă biểu diễn tám mươi năm, từ lúc hạ
sanh liền biểu diễn cho chúng ta thấy, măi cho đến
lúc lăo nhân gia viên tịch. Chúng ta học Phật đă lâu bèn
hiểu, lăo nhân gia diễn tuồng, diễn cho chúng ta xem,
diễn ǵ vậy? Diễn đại từ đại bi. Ngài
trụ thế tám mươi năm để biểu diễn
từ bi, để làm ǵ? Chính v́ thương xót hữu
t́nh. Chúng ta có thể thấu hiểu th́ mới có thể biết
bắt chước Ngài, học theo lăo nhân gia, học tập
xác thực là thiện căn, phước đức, nhân
duyên của chúng ta. Ngài có phương pháp vô cùng hay, khéo, thiện
căn thật sự sâu dầy, chúng tôi thường nói là “thật thà, nghe thời, thật
sự làm”. Người như vậy thiện căn thuần
hậu; nếu người ấy tiếp nhận Phật
pháp, sẽ thành tựu nhanh chóng hơn người khác.
Căn tánh thông thường sẽ chẳng thể tiếp
nhận hoàn toàn, luôn xen tạp ư nghĩ của chính ḿnh vào
trong ấy, đối với giáo huấn của thầy,
ngay cả đối với giáo huấn của Thích Ca Mâu
Ni Phật luôn nẩy sanh hoài nghi!
Nhất
là chúng ta cách Ngài đă hơn ba ngàn năm. Chúng ta luôn
nghĩ những ǵ lăo nhân gia đă nói tương ứng với
xă hội trong hơn ba ngàn năm trước, cách làm ấy
vẫn c̣n đúng cho hiện tại hay sao? C̣n có thể sử
dụng hay không? Chúng ta đều tự ngỡ chính ḿnh
thông minh, hiện tại là xă hội ǵ; v́ thế, dẫu là
kính ngưỡng tiếp nhận, nhưng cũng bị giảm
bớt rất lớn. Đến ngày nào thật sự ngộ
nhập, mới biết chính ḿnh đă đi đường
ṿng rất nhiều, đi sai chỗ rất nhiều,
đó là “chẳng nghe lời
người già, chịu thua thiệt trước mắt”.
Vẫn kể như là c̣n khá lắm, quư vị c̣n thoát ra
được. Có nhiều kẻ đă đi mà chẳng
thoát ra được, cứ đi loanh quanh măi, chẳng biết
đi đến nơi đâu, số này chiếm đại
đa số. Một số ít coi như rất may mắn, c̣n
thoát ra được. Sau khi đă thoát ra, bội phục
giáo huấn của Phật năm vóc sát đất. V́ thế,
chúng ta phải biết: Ta cũng từng đi đường
ṿng. Chúng ta biết điều ǵ? Kinh dạy “Phật Phật đạo đồng”,
chẳng phải là một ḿnh Thích Ca Mâu Ni Phật dạy
chúng ta như vậy, mà mười phương ba đời
hết thảy chư Phật đều nói theo cách này: Tŕ
giới, tu định, khai trí huệ. Tŕ giới là ǵ? Giữ
quy củ, đức Phật nói như thế nào, quư vị
liền làm đúng như thế ấy, chớ nên giảm
bớt, chớ nên biến đổi! Ngài là bậc từng
trải, là bậc từ phàm phu đă tu thành Phật, Ngài hiểu
rơ. Chúng ta vô tri, chưa từng đi theo con đường
ấy, đang sờ sẫm, thế mà quư vị chẳng
nghe theo người khác chỉ điểm, vẫn mong
lươn lẹo, trí trá, [luôn mơ tưởng]: Chắc
là trong ấy c̣n có con đường tắt, chúng ta hăy t́m
xem, không chừng Phật cũng chưa phát hiện! Chúng ta
luôn có ư tưởng ấy, đó là ǵ? Hiện thời gọi
[kiểu suy nghĩ đó] là cách nh́n khoa học! Chẳng biết
phương pháp của người ta là đúng. Quư vị
thấy người ta chẳng dùng tới khoa học hiện
tại, chẳng sử dụng những dụng cụ khoa
học tiên tiến nhất, chẳng dùng những thứ
đó, cũng chẳng dùng Toán Học cao sâu, đều chẳng
cần, mà tu Thiền Định. Chúng ta chẳng tin vào Thiền
Định, cứ tin vào khoa học, [cứ nghĩ] khoa học
thấy được, chứ Thiền Định không thấy.
Người tu Thiền Định biết: Thật sự
đắc Định th́ kích thước của thời
gian và không gian bị đột phá, từ Thiền Định
rất sâu thấy được nguyên khởi của
vũ trụ, vũ trụ h́nh thành như thế nào?
Đức
Phật đă thấy [những chuyện đó] từ ba
ngàn năm trước ư? Chẳng phải vậy! Thích
Ca Mâu Ni Phật đă sớm thành Phật. Kinh Phạm Vơng
nói Ngài đến thế gian biểu diễn tám tướng
thành đạo lần này chính là lần thứ tám ngàn. Kinh
Phạm Vơng nói như vậy, hé lộ một chút tin tức.
Đúng là “diễn từ biện”!
Đức Phật thật sự đang biểu diễn, biểu
diễn Ngài tu thành Phật như thế nào? Ngài thị hiện
cũng rất có ư nghĩa. Thị hiện là một người
trẻ tuổi hiếu học, thích học rộng, nghe nhiều,
mười chín tuổi đi tham học. Gần như đối
với các vị cao nhân trong tất cả các tôn giáo và tất
cả các học phái tại Ấn Độ, Ngài đều
từng thân cận, đều đến tham học, nhưng
chúng ta phải chú ư: Đây là chỗ học tập thật
sự! Học nhiều dường ấy, đến cuối
cùng, buông xuống toàn bộ, trở lại đường
xưa. Đường xưa là ǵ? Nhập Định. Nhập
Định bên sông Hằng, dưới cội Tất Bát
La, trở lại đường xưa, sở học
trong mười hai năm đều buông xuống. Chẳng
buông xuống, sẽ chẳng thể khai ngộ, đó là ǵ?
Sở Tri Chướng. Trong hai thứ chướng, một
là Phiền Năo Chướng, tức là tham, sân, si, mạn, những
thứ ấy là Phiền Năo Chướng. Học một
đống lớn như vậy là Sở Tri Chướng,
thảy đều chướng ngại quư vị tu Định,
chướng ngại quư vị khai ngộ. Tuy vậy, kinh
Phật cũng nói đến chuyện học rộng, nghe
nhiều! Chúng ta đọc kinh đều rất hời hợt,
đều chẳng chú tâm! Học rộng, nghe nhiều nói ở
chỗ nào? Trong Tứ Hoằng Thệ Nguyện, đầu
tiên là “chúng sanh vô biên thệ
nguyện độ”, đấy là bảo quư vị phát
tâm, phát tâm đại Bồ Đề mong phổ độ
chúng sanh. Muốn độ chúng sanh, ắt phải có đức
hạnh, có học vấn, nên chuyện đầu tiên là thành
tựu đức hạnh của chính ḿnh, tức là “phiền năo vô tận thệ nguyện
đoạn”. Giai đoạn tu hành đầu tiên là đoạn
phiền năo, tŕ giới và tu Định đều là đoạn
phiền năo, tức là Kiến Tư phiền năo, Trần Sa
phiền năo, Vô Minh phiền năo, Phiền Năo Chướng, Sở
Tri Chướng, toàn bộ đều phá, toàn bộ đều
buông xuống. Sau đấy mới học pháp môn: “Pháp môn vô lượng thệ nguyện
học”. Phiền năo thảy đều đoạn sạch,
trong Phật pháp nói là quư vị đắc Căn Bản Trí,
Căn Bản Trí là như thế nào? Trong kinh, đức Phật
dạy chúng ta: Căn Bản Trí là vô tri, “Bát Nhă vô tri”, có nghĩa ǵ? Căn Bản Trí là
Định, nó khởi tác dụng không ǵ chẳng biết.
Long
Thọ Bồ Tát đă biểu diễn cho chúng ta thấy.
Ngài chứng đắc Sơ Địa Bồ Tát, kể
như là Sơ Địa trong Biệt Giáo, đấy
cũng chính là Sơ Trụ trong Viên Giáo, là bậc “đại
triệt đại ngộ, minh tâm kiến tánh” như trong
Thiền Tông đă nói, cảnh giới hoàn toàn giống
như Thích Ca Mâu Ni Phật dưới cội Bồ Đề
và Huệ Năng đại sư trong phương trượng
thất của Ngũ Tổ. Đă đại triệt
đại ngộ, đó là Căn Bản Trí. Đạt
được Căn Bản Trí rồi mới lại học
hết thảy Phật pháp. Quư vị thấy Long Thọ Bồ
Tát chỉ dùng thời gian ba tháng để học thông suốt
toàn bộ hết thảy các pháp do Thích Ca Mâu Ni Phật
đă nói trong bốn mươi chín năm, ba tháng thôi nhé!
Ngài chẳng giống như chúng ta, tầm chương
trích cú phiền phức như vậy. Ngài chẳng phải
vậy, chúng ta có thể tưởng tượng, Ngài giống
như Huệ Năng đại sư.
Ngài Huệ
Năng không biết chữ, nhưng quư vị niệm kinh cho
Ngài nghe, Ngài liền hiểu. Trong Đàn Kinh đă chép một
thí dụ hết sức điển h́nh: Thiền sư Pháp
Đạt đọc kinh Pháp Hoa ba ngàn lượt, cổ
nhân đă nói: “Đọc sách
ngàn lượt, tự thấy ư nghĩa”. Sư niệm
kinh ba ngàn lượt, rất khó có, kể ra tâm Sư rất
thanh tịnh. Đến gặp Lục Tổ, lễ bái Lục
Tổ, đầu chẳng sát đất, lễ ba lạy
đều chẳng dập đầu sát đất. Khi
Sư đứng dậy, Lục Tổ liền hỏi
Sư: “Ông vừa mới lễ bái, đầu chẳng sát
đất, có ǵ đáng để kiêu ngạo ư?” Sư
liền nói Sư niệm kinh Pháp Hoa ba ngàn lượt. Đúng
là chẳng dễ dàng! Lục Tổ liền hỏi đại
ư của kinh Pháp Hoa là như thế nào? Sư chẳng nói
được, hướng về Lục Tổ thỉnh
giáo. Lục Tổ nói: “Kinh này ta chưa nghe qua, ông đă niệm
nhuần nhuyễn như thế, hăy niệm cho ta nghe thử”.
Kinh Pháp Hoa hai mươi tám phẩm, Sư niệm đến
phẩm thứ hai, tức phẩm Phương Tiện,
chưa niệm xong, Lục Tổ bảo: “Được
rồi! Phần sau chẳng cần niệm nữa, ta
đă biết toàn bộ”. Ngài học như vậy đó! Một
bộ kinh có phân lượng to dường ấy, Ngài chỉ
nghe mấy câu liền hiểu rơ, thông đạt.
Chúng ta biết
Long Thọ Bồ Tát ba tháng học xong các kinh do đức Thế
Tôn đă giảng trong bốn mươi chín năm, đó là
chuyện hết sức có thể xảy ra. Dùng
phương pháp giống như ngài Huệ Năng là
được, một ngày có thể học mấy chục
bộ kinh, vừa nghe liền hiểu rơ. Tổ giảng
đại ư kinh Pháp Hoa cho thiền sư Pháp Đạt
nghe, Sư khai ngộ, đă khai ngộ bèn lại lạy dập
đầu sát đất. Đó là thật, chẳng giả,
v́ sao? Hết thảy các pháp đều lưu xuất từ
tự tánh; chỉ cần quư vị kiến tánh, làm sao có thể
không biết cho được? Làm sao quư vị có chướng
ngại cho được! V́ thế, Nhất Thiết Trí,
Vô Sư Trí, Tự Nhiên Trí thảy đều xuất hiện.
Cổ
nhân Trung Quốc và người Ấn Độ học tập
nhằm đạt mục đích là cầu trí huệ, chẳng
phải là cầu tri thức. Đối với các trường
đại học nổi tiếng trên cả thế giới
hiện nay, tại Luân Đôn, tôi đến thăm đại
học Ngưu Tân (Oxford), đại học Kiếm Kiều
(Cambridge) và đại học Luân Đôn, tôi đến
thăm hai lần, [nhận thấy] đều là học
tri thức, chẳng phải là trí huệ. Tri thức có thể
giải quyết vấn đề cục bộ, có hạn
cuộc, lại c̣n để lại tác dụng phụ, chẳng
giống như trí huệ. Trí huệ giải quyết bất
cứ vấn đề nào, mà cũng chẳng để lại
tác dụng phụ. Từ chỗ này, quư vị có thể hiểu
chỗ khác nhau giữa người phương Đông và
người phương Tây. Cả thế giới nay
đang xuất hiện phiền phức, những thứ của
phương Tây đă chứng thực là chẳng thể giải
quyết vấn đề. V́ thế, hiện thời có nhiều
người phương Tây t́m đến Trung Quốc, t́m
đến Ấn Độ để t́m ǵ? T́m trí huệ.
V́ vậy, chúng ta phải
có tín tâm đối với tổ tiên, ngàn vạn phần
đừng hoài nghi. Hễ hoài nghi là sai mất rồi. Những
thứ của tổ tiên có thể lưu truyền mấy
ngàn năm, trong mấy ngàn năm, chúng đă được
không ít người xem đến, nếu chẳng phải
là những thứ tốt đẹp, chúng đă bị
đào thải từ lâu, há c̣n có thể truyền tới hiện
thời ư? Truyền tới hiện thời vẫn c̣n tồn
tại, hăy c̣n có lắm người học tập ngần
ấy, th́ chúng là thứ chân thật, tuyệt đối chẳng
giả. Chúng ta hăy nên thật sự liễu giải, thật
sự nhận thức, coi chúng là của quư báu, y giáo phụng
hành, chắc chắn sẽ được lợi ích. Cậy
vào ư kiến của chính ḿnh để thực hiện, trái
nghịch giáo huấn của cổ nhân, chắc chắn sẽ
đi ḷng ṿng, đi theo rất nhiều con đường
oan uổng! Có thể thoát ra th́ kể như quư vị may mắn
lắm. Chẳng thể thoát ra, lại quay về lục
đạo, lại phải luân hồi! Chúng ta chớ nên
không biết chuyện này. Do nói từ ḷng Từ nên gọi
là “diễn từ biện”.
“Thọ pháp nhăn” là trao cho chúng
ta pháp nhăn. “Pháp nhăn giả,
Như Lai ngũ nhăn chi nhất” (Pháp nhăn là một trong
năm mắt của Như Lai). Kinh Kim Cang nói rất tỉ
mỉ: “Ngũ nhăn giả, nhất
nhục nhăn, nhị thiên nhăn, tam huệ nhăn, tứ pháp nhăn, ngũ
Phật nhăn” (Ngũ Nhăn: Một là nhục nhăn, hai là thiên
nhăn, ba là huệ nhăn, bốn là pháp nhăn, năm là Phật
nhăn). Pháp nhăn là [mắt của] Bồ Tát. “Pháp nhăn giả, năi Bồ Tát vị độ chúng
sanh chiếu kiến nhất thiết pháp môn chi trí huệ” (Pháp
nhăn là trí huệ của Bồ Tát chiếu soi hết thảy
các pháp môn để độ chúng sanh), đó gọi là Pháp
Nhăn.
Pháp nhăn chiếu Chân
Không, thấy hết thảy các pháp, Tướng có, Tánh Không,
Sự có, Lư không, nghiệp nhân quả báo rơ ràng như ḷng
bàn tay, đó là pháp nhăn. V́ thế, Bồ Tát dùng pháp nhăn để
độ chúng sanh, trong lục đạo nên dùng thân ǵ
để độ liền hiện thân ấy, hoàn toàn chẳng
có chướng ngại. Giống như năm mươi
ba lần tham học của Thiện Tài đồng tử,
Thiện Tài đồng tử biểu hiện sự học
tập, giống như chương tŕnh tu học trong nhà
trường, năm mươi ba lần tham phỏng là thực
tập. Bồ Tát độ chúng sanh là đă tốt nghiệp,
rời khỏi trường, quả thật là ngũ nhăn
viên minh giống Như Lai.
Nói thông thường,
nhục nhăn là lục đạo phàm phu, thiên nhăn là từ Dục
Giới Thiên trở lên, đó là thiên nhăn có được
do quả báo. Nói theo cách hiện thời, trong thế gian hiện
tại, mắt con người có thể thấy được
một phần rất nhỏ của sóng ánh sáng, những
ánh sáng có bước sóng (wavelength) dài, chúng ta chẳng thể
thấy được. Sóng ánh sáng ngắn chúng ta cũng chẳng
thấy, bị hạn chế to lớn như thế
đó! Nếu thiên nhăn mở mang, các thứ ánh sáng khác nhau
quư vị đều trông thấy toàn bộ, thế giới
này ngay lập tức biến đổi h́nh dạng! Giống
như tia X, hoặc tia tử ngoại; [sử dụng] tia tử
ngoại có thể thấy rơ trong chỗ tối tăm. Tia
X có thể chiếu xuyên qua vật thể, nó có thể chiếu
thấu, thiên nhăn [có thể h́nh dung như vậy đó]. A
La Hán chứng đắc huệ nhăn, đó là mắt của
A La Hán và Bích Chi Phật. [Mắt của] Bồ Tát là pháp
nhăn. Phật nhăn thảy đều trọn đủ. Những
vị này (các vị Bồ Tát tham dự pháp hội Vô Lượng
Thọ) đều là Pháp Thân Bồ Tát, toàn bộ đều
là ngũ nhăn viên minh, nên các Ngài có thể biểu diễn, chẳng
có chướng ngại.
“Hội
Sớ viết: ‘Phật đạo chánh kiến, danh vi pháp
nhăn’. Tịnh Ảnh Sớ viết: Trí năng chiếu
pháp, cố danh pháp nhăn” (Hội Sớ giảng: “Chánh kiến
của Phật đạo gọi là pháp nhăn”. Tịnh Ảnh
Sớ giảng: “Trí có thể chiếu pháp, nên gọi là pháp
nhăn”). “Do thượng khả
kiến” (Từ những điều trên đây có thể
thấy), trong chú giải của các vị tổ sư
đại đức, “Pháp nhăn
giả, liễu đạt chúng sanh chủng chủng căn
khí, thiện tri nhất thiết cứu độ chi pháp”
(pháp nhăn là hiểu rơ thông đạt các thứ căn khí của
chúng sanh, khéo biết pháp cứu độ hết thảy).
Quư vị có năng lực thấy căn khí của chúng
sanh, căn khí ấy là ǵ? Quư vị có thể thấy kiếp
trước, thấy đời đời kiếp kiếp
trong quá khứ của họ, họ có từng học Phật
pháp hay chưa? Đă từng học các tôn giáo khác hay
chưa? Trong đời quá khứ, kẻ ấy đă tích
lũy, chủng tử được tích lũy trong A Lại
Da, loại chủng tử nào nhiều, có sức mạnh, Phật,
Bồ Tát liền thuận theo thiện căn của
người ấy để dạy dỗ, nên họ rất
dễ dàng tiếp nhận, rất dễ dàng nâng cao cảnh
giới của họ, cho thuốc đúng bệnh mà! Phàm
phu chúng ta không biết, chẳng có năng lực này. V́ thế,
hai câu kế tiếp là nói về cách ứng dụng: “Ứng cơ thí dữ, nhi độ
thoát chi” (thuận theo căn cơ để ban bố ḥng
độ thoát).
Chẳng có ngũ
nhăn, quư vị chẳng có cách nào ứng cơ, trong t́nh h́nh ấy,
quư vị làm như thế nào? Nếu quư vị có thể tiếp
nhận Tịnh Độ, sẽ là thù thắng khôn sánh. V́
sao? Pháp môn Tịnh Độ có thể ứng với hết
thảy các căn cơ bất đồng, nên nói là “thích hợp khắp ba căn,
thâu nhiếp lợi căn lẫn độn căn”.
Trong pháp môn Tịnh Độ, vô lượng căn cơ,
không có căn cơ nào chẳng tương ứng, toàn bộ
đều có thể thích ứng. V́ vậy, bất luận
là căn cơ trong quá khứ đă học ǵ, chỉ cần
tiếp xúc pháp môn Tịnh Độ, quư vị bèn thành công
ngay trong một đời, có thể đắc độ.
Nghĩa là ǵ? Hết thảy các pháp môn đều quy vào Tịnh
Độ, tới lúc cuối cùng đều quy vào Tịnh
Độ, chúng ta lư giải điều này.
Các
vị tổ sư đại đức từ xưa
đă nói, trong tám vạn bốn ngàn pháp môn, hết thảy
các pháp môn đều quy vào Hoa Nghiêm. Sau khi tu thành công, sau khi
đă phá vô minh, thảy đều đến thế giới
Hoa Tạng. Trong thế giới Hoa Tạng, hai vị đại
Bồ Tát Văn Thù và Phổ Hiền là trợ giáo của Tỳ
Lô Giá Na Phật, hai vị ấy dùng mười đại
nguyện vương của Phổ Hiền dẫn [các vị
Pháp Thân Bồ Tát trong Hoa Tạng] về Cực Lạc, thảy
đều dẫn họ sang thế giới Cực Lạc.
Quư vị thấy thù thắng lắm, đó là cảnh
tượng như thế nào? Tỳ Lô Giá Na Phật chẳng
biểu lộ mảy may đố kỵ hay chướng
ngại, chẳng chỉ trích Văn Thù và Phổ Hiền:
“Các ông là đệ tử nhập thất trước mặt
ta, cớ sao có thể đem toàn bộ người của
ta đi?” Nếu đối với người thế gian
chúng ta th́ chuyện này không thể được, c̣n ra thể
thống chi nữa? Quư vị thấy Phật là tâm lượng
ǵ? Đức Phật không chỉ chẳng tức giận,
không chỉ chẳng đố kỵ, mà c̣n vỗ tay, hoan hỷ,
các ông làm đúng lắm, v́ sao? Đến thế giới Cực
Lạc thành tựu nhanh chóng hơn thế giới Hoa Tạng.
Trong thế giới Hoa Tạng, tu hành thành Phật phải
mất ba đại A-tăng-kỳ kiếp, đến thế
giới Cực Lạc bèn rút ngắn thời gian rất nhiều.
Chư Phật
Như Lai chẳng có vị nào không mong mỏi chúng sanh sớm
thành Phật hơn, sớm có ngày trở về tự tánh.
Tuy Phật Phật đạo đồng, nhưng trong
đồng vẫn có bất đồng, hiển thị Di
Đà thù thắng khôn sánh. Cũng chính v́ đạo lư này, do
chân tướng sự thật này, nên tôi tạm ngưng giảng
kinh Hoa Nghiêm. Nh́n vào tốc độ tiến triển
trước mắt, bộ kinh này đại khái phải giảng
hai năm mới viên măn được! Tôi vốn tưởng
giảng một năm là được, nhưng một
năm chưa được, kinh này có bốn quyển,
chúng tôi c̣n giảng chưa xong quyển thứ nhất.
“Như
thượng chi trí huệ, tức danh pháp nhăn. Tịnh Ảnh
hựu viết: Giáo pháp sanh giải, danh thọ pháp nhăn”
(Trí huệ như trên đây, gọi là pháp nhăn. Ngài Tịnh Ảnh
lại nói: “Truyền dạy pháp khiến hiểu biết,
th́ gọi là trao pháp nhăn”). “Thọ”
(授) là trao cho, ban cho,
dạy cho phương pháp, “sanh
giải” (生解) là khai ngộ. Dạy
cho họ phương pháp ấy, họ dùng phương
pháp ấy để khai ngộ. Sự khai ngộ ấy chẳng
phải là tiểu ngộ, chẳng phải là đại ngộ
thông thường, mà là đại triệt đại ngộ,
minh tâm kiến tánh, đó gọi là “thọ pháp nhăn”.
“Cái giáo đạo chúng sanh, ư Phật pháp sanh chánh
giải, như đồng dĩ pháp nhăn thọ dữ chúng
sanh dă”
(là v́ chỉ dạy chúng sanh khiến cho họ đối với Phật pháp
sanh hiểu biết đúng đắn th́ cũng giống
như đem pháp nhăn trao cho chúng sanh vậy). Đây là ư
nghĩa mở rộng, là nói phương tiện thiện
xảo. Tổ sư đại đức dạy bảo chúng
sanh, diễn nói kinh luận, khiến cho đại chúng dự
hội đều có thể nghe hiểu, nghe rơ ràng, điều
này cũng giống như Như Lai trao pháp nhăn cho Bồ Tát,
trao cho chúng sanh, họ hiểu rơ, nói như thế nào? Chúng
ta thường nói là giải ngộ, chẳng phải là chứng
ngộ. Ví như v́ sao chúng ta sanh trong nhân gian? V́ sao phải
hứng chịu những quả báo ấy? V́ sao người
với người chẳng giống nhau? Nếu hiểu
rơ, thông đạt những lư luận và đạo lư ấy,
cũng hiểu chân tướng sự thật, tâm chúng ta
bèn định. Đó là giải ngộ, tức là đă lư
giải.
Phải tu hành
như thế nào th́ mới có thể vượt thoát, nay
chúng ta đều đă hiểu. Đức Phật khác với
chúng ta ở chỗ nào? Sáu căn tiếp xúc cảnh giới
sáu trần, chẳng khởi tâm động niệm, phân biệt,
chấp trước, đó là Phật. Lục căn của
chúng ta tiếp xúc cảnh giới lục trần, bèn khởi
tâm động niệm, phân biệt, chấp trước, đó
là phàm phu. Đức Phật dạy chúng ta: Nếu chúng ta
có thể không chấp trước, sẽ là A La Hán. Lại
có thể chẳng phân biệt th́ là Bồ Tát, cuối cùng
chẳng khởi tâm, không động niệm, chúng ta sẽ
thành Phật. [Những điều ấy chúng ta] đều
hiểu, nay th́ như thế nào? Nay th́ thật sự chẳng
thực hiện! Chúng ta biết người thật sự
hiểu sẽ thật sự thực hiện. Nếu chẳng
thực hiện triệt để th́ đối với một
trăm phần trăm người ấy chỉ thực
hiện một hai phần, c̣n kém rất xa!
Thực hiện ở
chỗ nào? Thực hiện ở chỗ sáu căn tiếp
xúc cảnh giới sáu trần th́ mới là thật sự thực
hiện. Mắt thấy sắc, biết sắc tướng
là giả, chẳng thật. Nghe tiếng cũng biết tiếng
là giả, cũng chẳng phải là thật. Căn, trần,
thức đều chẳng thật, thường xuyên cảnh
tỉnh như vậy, chúng ta sẽ chẳng chấp
trước, phải dưỡng thành thói quen này. Thật sự
chẳng chấp trước hết thảy các pháp như
vậy, hễ sanh về Tây Phương Cực Lạc thế
giới, chúng ta liền sanh trong cơi Phương Tiện, chẳng
sanh trong cơi Phàm Thánh, được nâng cao hơn với một
mức độ lớn. V́ thế, chớ nên không biết
điều này: Tu hành từ giải ngộ, sau khi đă ngộ,
bắt đầu tu bèn là thật học. Khi tu hành, kinh
điển này làm chứng minh cho chúng ta. Chúng ta khế nhập
cảnh giới, bèn đối chiếu với kinh điển.
Nếu đúng với những ǵ kinh điển đă nói, chúng
ta biết chính ḿnh chẳng đi lạc đường, nó
làm chứng cho chúng ta. Khi chẳng có công phu, nó dẫn dắt
chúng ta. Sau khi đă có công phu, kinh ấn chứng cho chúng ta:
Chúng ta tu hành chẳng lạc đường!
Câu
tiếp theo là “đỗ ác thú”
(ngăn lấp nẻo ác). “Đỗ
giả, tắc dă” (Đỗ là ngăn lấp), ngăn
chặn. “Ác thú giả, súc sanh,
quỷ, địa ngục tam ác thú dă” (Ác thú là ba
đường ác súc sanh, ngạ quỷ, địa ngục).
[“Đỗ ác thú”] là ngăn lấp ba ác đạo. “Ác thú cực khổ, dục linh xuất
ly, giáo nhân ly ác, tắc bế tắc thông văng ác thú chi đạo”
(Đường ác
rất khổ, muốn cho họ được thoát
khỏi, nên dạy người khác ĺa ác th́ chính là đóng
lấp con đường dẫn đến nẻo ác). V́ sao dạy
người ta đoạn ác tu thiện? Phải hiểu ư
nghĩa này, đây là giáo dục nhân quả. Quư vị tu thiện,
tiêu chuẩn thiện ác là Thập Thiện Nghiệp Đạo.
Quư vị tu Thập Thiện, quả báo là nhân thiên. Nếu
quư vị tu Thập ác, quả báo trong tam đồ; trong tương
lai, sau khi chết, linh hồn của quư vị sẽ đi
về đâu? Súc sanh, ngạ quỷ, địa ngục, tới
những nơi đó. V́ thế, Phật giáo dạy chúng ta
Thập Thiện, Thập Thiện là pháp căn bản, trọng
yếu hơn bất cứ ǵ khác. Không sát sanh, chẳng nợ
mạng người. Không trộm cắp, chẳng nợ kẻ
khác tiền của. Chẳng có hai loại đại oan gia
ấy. Hễ có hai loại đại oan gia ấy, đời
đời kiếp kiếp trả nợ chẳng xong. Quư vị
nói có phiền phức lắm hay không? Không có dâm dục, sẽ
chẳng sanh trong thế gian này. Chúng sanh trong lục đạo,
tức Dục Giới, do dâm dục mà có tánh mạng của
chính ḿnh. V́ sao quư vị sanh đến đây? Do có dâm dục.
Hễ có ư niệm ấy th́ không được rồi, quư
vị chẳng thoát khỏi Dục Giới. Dục Giới
khổ nhất. Sắc Giới và Vô Sắc Giới tốt
đẹp hơn Dục Giới rất nhiều, ba ác
đạo khổ nhất.
“Kim kinh
Di Đà đại nguyện viết: ‘Lai sanh ngă sát, bất
phục cánh đọa đọa ác thú’, thị chân thật
chi đỗ ác thú dă” (trong kinh này, đức Di Đà có đại
nguyện: “Sanh về cơi ta, chẳng
bị đọa trong đường ác nữa”, thật
đúng là ư “lấp nẻo ác”). Thật vậy, chẳng
giả! Văng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới,
vĩnh viễn chẳng c̣n đọa trong ba ác đạo.
Nếu chúng ta chẳng văng sanh, vẫn ở trong lục
đạo, chắc chắn thời gian trụ trong ba ác
đạo dài, thời gian trụ trong ba thiện đạo
ngắn ngủi. Nếu quư vị hỏi v́ sao ư? Chính
quư vị hăy khéo suy nghĩ, từ sáng đến tối,
quư vị khởi tâm động niệm, thiện niệm
nhiều, hay ác niệm nhiều? Quư vị biết ngay! Trong
mỗi niệm, ác niệm nhiều hơn thiện niệm,
ích kỷ mà! Bao nhiêu niệm nghĩ v́ chính ḿnh, có mấy niệm
nghĩ cho người khác? Nghĩ đến chính ḿnh đều
là ác, nghĩ v́ người khác là thiện. Chúng ta có bao nhiêu
thiện niệm lợi ích chúng sanh? Có bao nhiêu niệm lợi
ích chính ḿnh? Quư vị sẽ biết, trong thế gian này, thời
gian chúng ta trụ trong ba thiện đạo dài lâu hay thời
gian trụ trong ba ác đạo dài lâu? Hiểu thật rành mạch!
“Hựu
khai thiện môn giả, Hội Sớ viết: Đại từ
đức dă, thiện môn tắc Bồ Đề Niết
Bàn chi môn dă” (Sách Hội
Sớ lại giảng chữ “khai thiện
môn” như
sau: “Là đại từ đức. Thiện môn là
cửa Bồ Đề Niết Bàn”). Chân thiện, chí thiện, Bồ Đề là giác
ngộ, phá mê khai ngộ, văng sanh Tịnh Độ. “Bổn kinh Thọ Lạc Vô Cực
phẩm viết” (Phẩm
Thọ Lạc Vô Cực của kinh này nói), đây là
phẩm thứ ba mươi hai, “tất đắc siêu
tuyệt khứ, văng sanh vô lượng thanh tịnh A Di
Đà Phật quốc. Thị vi chân thật chi khai
thiện môn dă” (“Ắt
được siêu tuyệt, văng sanh cơi vô lượng thanh
tịnh của A Di Đà Phật”, đúng là đă mở
cửa lành một cách chân thật vậy). Mở như thế
nào? Trong kinh Vô Lượng Thọ, Thích Ca Mâu Ni Phật
đă mở toang một cánh cửa to lớn thông sang thế
giới Cực Lạc, chẳng giả tí nào! Quư vị mỗi
ngày niệm kinh chính là học tập hằng ngày, dần dần
sẽ bất tri bất giác tiến vào cửa ấy.…………
Dùng phương
pháp ǵ để cứu vớt [những tai nạn]? Biến
đổi tâm thái. Đây là một cống hiến do các nhà
khoa học Lượng Tử đề ra; năng lực
của ư niệm vô cùng to tát, mạnh mẽ. Nếu là ư niệm
tập thể, rất nhiều người có ư niệm tốt
đẹp. Ư niệm tốt đẹp, chính là ba căn bản
của Nho, Thích, Đạo như chúng tôi đă nói và kinh Vô
Lượng Thọ. Ư niệm ấy vô cùng tốt đẹp,
càng đông người càng hay, sức mạnh càng lớn,
có thể hóa giải những tai biến trên địa cầu.
Trong kinh, đức Phật đă dạy chúng ta như thế.
Điều khó có là trong lúc hết sức khẩn yếu,
các nhà Lượng Tử Lực Học đă phát hiện,
phát hiện của họ hoàn toàn tương ứng với
những điều kinh Phật đă nói, họ đă chứng
minh Phật pháp. V́ vậy, chúng ta nhất định phải
tu Thập Thiện Nghiệp Đạo.
[Để tu học]
Thập Thiện Nghiệp Đạo th́ phải dùng Đệ
Tử Quy và Cảm Ứng Thiên để làm nội dung học
tập, cũng có nghĩa là thực hiện Thập Thiện
Nghiệp Đạo bằng Đệ Tử Quy, thực
hiện bằng Cảm Ứng Thiên, bằng Văn Xương
Đế Quân Âm Chất Văn, thực hiện bằng những
thứ ấy. Quư vị đă thực hiện hai món kia th́ Thập
Thiện Nghiệp Đạo đă làm được. Sau
đấy, sẽ “thâm nhập
một môn, huân tu lâu dài”. Một môn ấy chính là pháp môn Tịnh
Độ, một bộ kinh Vô Lượng Thọ, một
câu A Di Đà Phật, những thứ khác đều buông xuống.
V́ thời gian chỉ có ba năm, c̣n chưa đến ba
năm, hy vọng chúng ta có thể vượt qua cửa ải
khó khăn này, giảm nhẹ tai nạn, rút ngắn thời
gian tai nạn. Trong quá khứ, khá nhiều thứ đều
ứng nghiệm, nhưng lần này nghiêm trọng hơn so
với quá khứ, chúng ta tận tâm tận lực, mọi
người đồng tâm đồng đức, dùng thiện
niệm và thiện nguyện của chúng ta để hóa giải
kiếp nạn này. Hôm nay đă hết thời gian rồi,
chúng ta học tới đây!
Tịnh
Độ Đại Kinh Giải Diễn Nghĩa
Phần 68
hết
[1] Chúng tôi nghĩ ở đây có sự sai
lầm trong sự phiên dịch giữa người Hoa và
người Ấn Độ trong chuyến du hành ấy. V́
theo từ điển Sanrit-Anh và Phật Môn Từ
Điển, Am Ma La là phiên âm của chữ Āmalaka trong
tiếng Phạn, và tên tiếng Anh tương ứng
của nó là Emblic Myrobalan, nay người Ấn Độ
thường gọi là Amala, Amilika, Amla, hoặc Dhatrik, và
thường được biết với tên Indian
Gooseberry. Đây là một loại trái có thịt mọng,
nhỏ chừng bằng trái cà pháo, có màu xanh vàng, ở
giữa có một hạt cứng, da mịn, khi c̣n xanh
rất cứng, có sáu rănh, có vị chua, đắng. Khi chín,
trái đổi sang màu nâu tím hơi giống trái bồ quân.
Lá cây này giống như lá me. Hơn nữa, trái ổi
gọi theo tiếng Sankrit sẽ là Bijabura. Người
Ấn Độ thường đem muối trái Am Ma La
với muối và nghệ, dùng làm thức ăn mặn
như ta ăn dưa muối. Riêng đối với
chữ Đề Hồ, ḥa thượng nói là Salad,
nhưng chúng tôi nghĩ Ngài muốn nói loại sốt
(dressing) để ăn với rau xà lách thường
chế từ phó mát.
[2] Tân Cương vốn là tên gọi sau
này của vùng được coi là Tây Vực (đúng ra là
phần lớn của Tây Vực cổ), bao gồm
địa bàn của các vương quốc cổ
đại (như Nhục Chi, Lâu Lan, Hung Nô, Khố
Xương, Tây Liêu, Tinh Tuyệt v.v…), phần nhiều
sống du mục, đă bị diệt quốc. Kể từ
đời Hán, nhà Hán đă đặt Tây Vực Đô
Hộ Phủ để khống chế các sắc dân này.
Tây Vực hoàn toàn bị Trung Hoa biến thành thuộc
địa dưới đời Càn Long. Trong niên hiệu
Quang Tự thứ mười (1884), khi Tả Tông
Đường thành công đuổi quân xâm lăng A Cổ
Bách ra khỏi vùng này, bèn tâu xin nhà vua đặt vùng này thành
tỉnh mới, đặt tên là Tân Cương
(cương vực mới). Tân Cương hiện
thời nằm lọt giữa các tỉnh Cam Túc, Thanh
Hải, khu tự trị Tây Tạng và khu tự trị
Nội Mông. Dân tộc chủ yếu sống trong vùng này là
Hồi Hột, Mông Cổ, Cáp Tát Khắc (Kazakh), Duy Ngô
Nhĩ (Uigur) v.v…
[3] Hành lang Hà Tây (Hà Tây Tẩu Lang), c̣n
gọi là Cam Túc Tẩu Lang là một giải b́nh nguyên
hẹp nằm giữa các vùng núi cao, phía Đông kể
từ Ô Tiêu Lănh, phía Tây từ Ngọc Môn Quan, phía Bắc
giáp ranh Kỳ Liên Sơn và A Nhĩ Kim Sơn, dài đến
900 km, bề ngang chỉ có mấy cây số, giống
như một hành lang hẹp, lại nằm ở phía Tây
Hoàng Hà, nên mới có tên gọi là Hà Tây Tẩu Lang. Đây là
tuyến đường trọng yếu để từ
Trung Nguyên ra vào vùng Tân Cương.
[4] Thống Chiến Bộ là tên gọi
tắt của Trung Quốc Cộng Sản Đảng Trung
Ương Ủy Viên Hội Thống Nhất Chiến
Tuyến Công Tác Bộ, thường được gọi
tắt là Trung Cộng Trung Ương Thống Chiến Bộ,
là một tổ chức ngoại vi của đảng
Cộng Sản Trung Quốc, nhằm liên kết, thống
nhất tư tưởng và hành động các thành
phần trí thức, viên chức, tôn giáo, quân dân không phải
là đảng viên Cộng Sản trong xă hội (thực
chất là kiểm soát), nhằm đảm bảo họ
sẽ trung thành và ủng hộ mọi đường
lối của chính phủ. Tổ chức này c̣n
đồng thời chủ tŕ công tác Hoa vận để
nối dài quyền lực kiểm soát nơi các cộng
đồng Hoa Kiều hải ngoại. Điều này
thường được gọi châm biếm là “expand
soft power” trong các sách báo ngoại quốc. Nói cách khác, đây
chính là một tổ chức tương đương
với cơ cấu Mặt Trận Tổ Quốc của
chính quyền Việt
[5] Theo A Dục Vương Tự Chí,
Lợi Tân Bồ Tát chính là sư Huệ Đạt, tổ
khai sơn A Dục Vương Tự. Theo đó, vào năm
Thái Khang thứ ba (282) đời Tây Tấn, Lưu Tát Ha là
người xứ Ly Thạch, Khai Châu, tỉnh Sơn
Đông. Do cầu xá-lợi, ông Lưu đến vùng núi Kê
Mậu, kết lều tranh trên Ô Thạch, thấy tháp
xá-lợi từ dưới đất vọt lên, bèn
dựng lều, xây thảo am tu hành tại đó, lâu ngày
thành chùa. Sư lấy đạo hiệu là Huệ
Đạt. Về sau, tăng đông, đất hẹp,
mới chọn vùng đất thuộc Cận Châu
để lập chùa. Trong vùng đất cũ của A
Dục Vương Tự vẫn c̣n tháp thờ cốt ngài
Huệ Đạt.